Cập nhật nội dung chi tiết về Bài Văn Khấn Đền Mẫu Âu Cơ Văn Khấn Xin Lộc Ở Chùa, Di Tích Đền Mẫu Âu Cơ mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cài đặt ứng dụng Bluezone tại địa chỉ https://www.bluezone.gov.vn để cảnh báo nguy cơ lây nhiễm Covid-19
bocdau.comPortal – Nằm trên vùng đất địa linh nhân kiệt (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình lịch sử văn hoá đặc biệt, là biểu tượng của tinh thần yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc. Hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam.
Đang xem: Văn khấn đền mẫu âu cơ
Khi Ngọc Nương phu nhân sinh nàng Âu Cơ thấy có mây lành che chở, hương thơm toả ngát khắp nơi, là điềm “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên Nàng Âu Cơ rất xinh đẹp, “So hoa hoa biết nói, so ngọc, ngọc ngát hương”, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật.Sau khi kết duyên, Lạc Long Quân đưa Âu Cơ từ động Lăng Sương về núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ trở dạ sinh được một bọc trăm trứng nở thành một trăm người con. Khi các con lớn lên Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khó mà hoà hợp…bèn chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để lưu truyền đựơc lâu dài, về sau tất cả các con đều hoá thần. Trong 50 người con theo mẹ thì người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời vua Hùng trị vì đất nước trong 2621 năm (Từ năm Nhâm Tuất 2879 đến năm 258 TCN).
Bà Âu Cơ cùng các con đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Trên con đường dài muôn dặm đó, một ngày kia Người đến trang Hiền Lương, quận Hạ Hoa, trấn Sơn Tây.Thấy phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, có núi cao đồng rộng, sông dài, có hồ nước trong xanh bát ngát, cỏ cây hoa lá tốt tươi, cá chim muông thú dồi dào. Người cho khai hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu…là những cái tên từ thủa xa xưa đến nay vẫn còn đọng mãi trong ký ức người dân nơi đây.Khi trang ấp đã ổn định, người lại cùng các con lên đường đến các vùng đất mới. Đến khi giang sơn đã thu về một mối, bờ cõi biên cương được mở rộng, Người lại trở về với Hiền Lương, nơi người đã chọn để gắn bó cuộc đời của mình. Tương truyền ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, bà Âu Cơ cùng bầy tiên nữ bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, ở đó nhân dân đã dựng lên một ngôi miếu thờ phụng, đời đời hương khói.
Để tri ơn công đức Tổ Mẫu Âu Cơ và giáo dục truyền thống dân tộc, cách đây hơn 500 năm, thế kỷ thứ XV thời hậu Lê, vua Lê Thánh Tông đã phong thần và cho xây dựng Đền Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền Lương – huyện Hạ Hoà; Đền Mẫu Âu Cơ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1991.Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10-11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8… Nhân dân trong vùng từ già, trẻ, gái, trai ai cũmg thuộc câu ca:
Đền Mẫu Âu Cơ ( Mẫu Đầm Đa)
Theo truyền thuyết thì cháu ba đời của Đế Viên họ Thần Nông là Đế Minh nhân chuyến tuần du vùng núi Ngũ Lĩnh Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngài là bậc thánh thông minh. Đế Minh yêu quý Lộc Tục cho nối ngôi, phong là Kinh Dương Vương ( 287-294 trước Công Nguyên) cho cai quản phương Nam. Lộc Tục lấy con gái Long Thần là Động Đình Quân sinh ra Lạc Long Quân, tức Sùng Lãm là người có đức độ tài hoa, văn võ song toàn, giúp dân trừ tà giết quỷ. Trong chuyến tuần du ở Động Lăng Xương bên Sông Đà. Lạc Long Quân đã gặp Âu Cơ là con gái của Đế Lai nên hai người đã nên duyên vợ chồng rồi Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng nở 100 người con. Khi các con lớn lên, Lạc Long Quân đã nói với Âu Cơ: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hỏa khó hòa hợp, vì thế hai người đã chia 50 người con theo mẹ lên rừng, 50 người con theo cha xuống biển, trở thành tổ tiên của các tộc người, dòng họ Việt Nam ngày nay.
Xưa nay, tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong các hiện tượng văn hóa độc đáo, đặc sắc và nổi trội trong hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng ở các làng quê của Việt Nam. Tín ngưỡng này xuất hiện từ hàng nghìn năm trước nhằm thể hiện tư duy, niềm khao khát về mặt tinh thần thờ Mẫu, người sinh thành, nuôi dưỡng, bảo lưu các thế hệ giống nòi; đồng thời, gắn liền với việc đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội, luôn lấy nghề nông làm nền tảng kinh tế. Tục thờ Mẫu có thể coi là một truyền thống đặc sắc, mang tính nhân văn tốt đẹp của người Việt Nam mà ít nơi nào trên thế giới có được. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và phát triển, trải bao thăng trầm theo những biến động của xã hội, đời sống tâm linh của người Việt Nam đã có nhiều đổi thay. Song tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn tồn tại bền bỉ và có sức lan tỏa rộng khắp trong dân gian, làng xã Việt Nam.
Từ xưa đến nay Đền Mẫu là địa điểm thu hút khách khá đông trong quần thể di tích này, sự linh thiêng huyền diệu của Mẫu Tổ Âu Cơ vẫn được lan truyền. Du khách thập phương vẫn tìm về cầu xin Quốc Mẫu ban cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, dân chúng ấm no, hạnh phúc.
Văn Khấn Lễ Mẫu Âu Cơ
Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn 30 Tết, Bài Khấn Xin Bán Nhà, Văn Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Bài Khấn Xin Con, Văn Khấn 3/3 Tại Mộ, Bài Khấn Xin Lộc, Bài Khấn Xin Sám Hối, Văn Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Lễ Mẫu, Bài Khấn Xây Nhà, Bài Khấn Vào Nhà Mới, Văn Khấn Hạ Lễ, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn 49, Văn Khấn 4 Phủ, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Lầu Cô Lầu Cậu, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Văn Khấn 3/3, Ca Sĩ Văn Khấn, Các Bài Khấn âm Hán, Văn Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn 2/16, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn 2 Tết, Văn Khấn ở Phủ Tây Hồ, Văn Khấn ô Táo, Bài Khấn Lễ, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Bài Khấn Xin Sửa Mộ, Văn Khấn 3.3, Bài Khấn Yên Tử, Văn Khấn 3 Tết, Bài Khấn Mẫu âu Cơ, Bài Khấn Mẫu, Bài Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn 27/7, Bài Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn 23, Bài Khấn Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Khấn Lễ Đền, Văn Khấn ô Thần Tài, Bài Khấn ở Nhà, Bài Khấn Sửa Nhà, Văn Khấn Ban Tam Bảo, Bài Khấn Tại Yên Tử, Bài Khấn Tam Bảo, Bài Khấn Thần Tài Thổ Địa, Văn Khấn 2 ông Thần Tài, Bài Khấn Rằm Tại Nhà, Bài Khấn Rằm, Văn Khấn Cô 6, Bài Khấn Ra Mộ, Văn Khấn Cô 9, Văn Khấn 5.5, Văn Khấn Cô Bơ, Bài Khấn Tại Đền, Văn Khấn Bán Nhà, Văn Khấn Ban Mẫu, Bài Khấn Sửa Mộ, Bài Khấn Sửa Bếp, Văn Khấn ăn Hỏi, Bài Khấn Tạ Đất Đầu Năm, Văn Khấn An Vị, Văn Khấn An Vị Bàn Thờ, Bài Khấn Sao Mộc Đức, Văn Khấn An Vị Bàn Thờ Thần Tài, Bài Khấn Tạ Mộ, Văn Khấn âm Hán, Văn Khấn An Vị Thần Tài Thổ Địa, Văn Khấn Bà Cô Tổ, Bài Khấn Tạ Đất, Bài Khấn Tứ Phủ, Bài Khấn ông Táo, Văn Khấn Đổ Mái, Văn Khấn Đức ông, Văn Khấn Em Bé Đỏ, Bài Khấn Vào Hè, Văn Khấn Giỗ, Văn Khấn Giỗ Bố, Bài Khấn ông Địa Thần Tài, Văn Khấn Giỗ Cụ, Văn Khấn Giỗ Đầu, Văn Khấn Hà Bá,
Văn Khấn Hạ Bàn Thờ, Văn Khấn 30 Tết, Bài Khấn Xin Bán Nhà, Văn Khấn Lễ Tạ, Văn Khấn Lễ Tạ Đất, Văn Khấn M 1, Văn Khấn Mẫu, Văn Khấn Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Mẫu Mẹ âu Cơ, Bài Khấn Xin Con, Văn Khấn 3/3 Tại Mộ, Bài Khấn Xin Lộc, Bài Khấn Xin Sám Hối, Văn Khấn Lễ Mẫu âu Cơ, Văn Khấn Lễ Mẫu, Bài Khấn Xây Nhà, Bài Khấn Vào Nhà Mới, Văn Khấn Hạ Lễ, Bài Khấn ở Đền Mẫu, Bài Khấn ở Đền, Văn Khấn Hán Nôm, Văn Khấn 49, Văn Khấn 4 Phủ, Bài Khấn ở Ban Tam Bảo, Văn Khấn Khi Đi Đền, Bài Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Đi Phủ Tây Hồ, Văn Khấn Lầu Cô Lầu Cậu, Bài Khấn Mở Cửa Mã, Văn Khấn 3/3, Ca Sĩ Văn Khấn, Các Bài Khấn âm Hán, Văn Khấn Nôm, Văn Khấn Khi Lễ Đền, Văn Khấn ở Đền, Bài Khấn Khi Đi Đền, Văn Khấn ô Địa, Văn Khấn 2/16, Con Quý Vị Gặp Khó Khăn Khi Đọc?, Văn Khấn 2 Tết, Văn Khấn ở Phủ Tây Hồ, Văn Khấn ô Táo, Bài Khấn Lễ, Bài Khấn Lễ ăn Hỏi, Bài Văn Khấn Tẩy Uế, Bài Khấn Xin Sửa Mộ, Văn Khấn 3.3, Bài Khấn Yên Tử, Văn Khấn 3 Tết, Bài Khấn Mẫu âu Cơ,
Đền Mẫu Âu Cơ, Ấm Áp Một Huyền Tích Xưa
Nằm ở phía Tây của tỉnh Phú Thọ, huyện miền núi Hạ Hòa vốn là miền quê sơn thủy hữu tình, nơi xưa kia, trong huyền thoại, mẹ Âu Cơ cùng 50 người con đi khai thiên phá thạch, dạy dân trồng lúa nước, trồng dâu dệt vải.
Theo quốc lộ 32C, men theo dòng sông Hồng, chúng tôi trở về và dừng chân tại xã Hiền Lương, nơi tọa lạc ngôi đền thờ Mẫu đúng vào thời điểm tết đến xuân về. Một phong cảnh thanh bình, trù phú hiện ra trước mắt…
Ấm áp một huyền tích…
Tương truyền vợ chồng Đế Lai ở động Lăng Xương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay) sinh được người con gái đặt tên là Âu Cơ. Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm tỏa ngát, trên trời có mây lành che chở, điềm báo “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên Âu Cơ ngày càng xinh đẹp, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Âu Cơ được Lạc Long Quân kén làm vợ và đưa về núi Nghĩa Lĩnh, sau đó sinh ra bọc trăm trứng nở ra một trăm người con trai.
Khi các con lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: ” Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên duyên phận đến đây đã hết “. Hai người bàn định chia đôi số con để ngườilên rừng, người xuống biển nhằm gây dựng mở mang non sông bờ cõi. Lạc Long Quân đưa 50 người con về miền biển làm nghề chài lưới, Âu Cơ đưa 49 người con lên núi khai phá rừng hoang, để lại người con trưởng làm vua, 18 chi đời đều gọi Hùng Vương. Mẹ Âu Cơ cùng 49 người con lên miền ngược thấy đất Hiền Lương phong cảnh tươi đẹp, sơn thủy hữu tình nên đã chọn làm nơi dừng chân khai sơn phá thạch.
Rồi đến một đêm, Mẹ mơ thấy Tiên ông bảo rằng: ” Ngày mai con phải đi về phương Nam gặp tiên“. Tỉnh giấc Mẹ đi về phương Nam, đến chân một trái núi nhìn lên Mẹ thấy trái núi như một ngai vàng. Bỗng Tiên ông xuất hiện tay cầm gậy, tóc trắng râu dài, xung quanh mây vần vũ. Tiên ông bảo rằng: ” Ngọc Hoàng sai con xuống hạ giới này sản sinh ra một giống người. Nay đã đông đàn dài lũ, chúng đã biết làm ăn sinh sống. Vậy đến ngày mùng 7 tháng giêng này con phải về trời theo lệnh vua cha nghe con, trước khi về trời lên núi Nỏ ta cho người đón “. Nói rồi, Tiên hòa vào đám mây biến mất. Mẹ Âu Cơ bỗng bừng tỉnh, bà thắp một nén nhang và quay về nơi ở.
Nay dãy núi đó gọi là núi Ông (Thuộc địa phận xã Xuân Áng- Hạ Hòa- Phú Thọ). Rồi đến tết năm đó, Mẹ cho gọi đông đủ con cháu trong vùng về ăn tết, thật vui vẻ, thật to với nhiều trò chơi hấp dẫn. Sáng ngày mùng 7 tháng giêng, Mẹ Âu Cơ dặ các con ở nhà chăm chỉ làm ăn và phải thương yêu lấy nhau, Mẹ lên núi ít ngày hái thuộc.
Thế rồi, Mẹ đi theo hướng Tây lên núi Nỏ, gặp một khe đá, mẹ đi ngược theo triền đá, khi mặt trời lên bằng lẩy, Mẹ cũng vừa thấm mệt, bỗng nghe thấy có tiếng rúc rích cười. Thì ra là một bầy tiên nữ đã mang xiêm váy xuống đón mẹ. Một tiên nữ quỳ lạy trước Mẹ thưa rằng: ” Chúng con tuân lệnh Ngọc Hoàng về đây đón Mẹ. Mời Mẹ xuống ao tắm và thay váy áo để về trời cho kịp”.
Các tiên đã đem cả áo từ trời xuống cho Mẹ tắm và thay. Dòng nước Mẹ Âu Cơ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối. Người đời sau gọi đó là Ao Trời- Suối Tiên là như vậy (Ngày nay thắng cảnh này thuộc địa phận xã Quân Khê- Hạ Hòa- Phú Thọ).
Sau khi thay xiêm áo, Mẹ giữ lại dải lụa đào và ngước nhìn về phía chân núi xa xa. Nơi đó Mẹ đã nuôi dạy cháu con và gắn bó cả cuộc đời. Khi theo các tiên nữ bay về trời, Mẹ Âu Cơ cố bay lượn thật thấp để nhìn thấy cháu con và nơi ở lần cuối. Bất thần, Mẹ thả dải khăn đào xuống như để lại tình thương yêu vô bờ cho con cháu.
Con cháu đang vui chơi, bỗng trời tối sầm, bão tố nổi lên. Rồi một dải lụa đào bay lượn trên không, bay mãi rồi từ từ rơi xuống ôm lấy cả ngôi nhà và đàn cháu con đang nhảy múa. Ai cũng hiểu: Mẹ đã về trời ! Đàn con thắp nhang cầu nguyện cho Mẹ rồi họ gập dải khăn của Mẹ đặt lên bàn thơ. Tại đây, sau này con cháu đã dựng đền thờ Mẹ. Từ đó đến nay, dân trong vùng cứ đến mùng 7 tháng giêng lại làm lễ linh đình, tưởng nhớ Mẹ tại đền Mẫu Âu Cơ và bao giờ cũng đem dải lụa đào trải trên ngọn cây đa cổ thụ tại đền để ghi nhớ công ơn cao dầy của Mẹ Âu Cơ.
Đền Quốc Mẫu nằm ở giữa cánh đồng lúa phì nhiêu của xã Hiền Lương, ven quốc lộ 32C. Ngôi đền tọa lạc dưới gốc đa cổ thụ quanh năm xanh tốt. Xưa kia, ngôi đền được nhân dân xã Hiền Lương xây bằng chất liệu mật mía, trải qua chiến tranh, ngôi đền vẫn không hề bị phá hủy. Ngày nay, đền được xây dựng và tu bổ khang trang hơn, là nơi để du khách thập phương viếng thăm. Đền Mẫu Âu Cơ mãi là nơi hội tụ những huyền tích về người Mẹ của muôn dân đất Việt, là điểm đến tâm linh trong hành trình về cội nguồn.
Du khách thập phương về chiêm bái đền Mẫu Âu Cơ vào tháng giêng hằng năm.Tưng bừng lễ hội tri ân Quốc Mẫu
Hằng năm, cứ vào dịp tết Nguyên đán, đất trời Hiền Lương (Hạ Hòa- Phú Thọ) lại dậy lên một không khí linh thiêng và bao điều huyền thoại về truyền thuyết Mẫu Âu Cơ dừng chân nơi đây sinh cơ lập ấp trong hành trình đưa 50 người con đi “khai thiên phá thạch”.
Từ bao đời nay, người dân Hiền Lương huyện Hạ Hòa tổ chức trang trọng lễ hội đền Mẫu Âu Cơ vào mùng 7 tháng giêng. Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10-11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8, ngày “Tiên thăng” 25 tháng Chạp. Đây là dịp để muôn dân đất Việt và du khách thập phương hướng về cội nguồn. Điều đặc biệt trong lễ hội đền Mẫu là các phong tục và hoạt động đều gắn liền với văn hóa trồng lúa nước của người dân bản địa nơi đây.
Xưa kia, trong huyền tích, Mẹ Âu Cơ dừng chân tại Hiền Lương lập sơn trang, dạy dân trồng lúa nước, trồng dâu nuôi tằm và dệt vải. Chính vì vậy, lễ vật dâng lên Mẫu Mẹ cũng gắn liền với sự trù phú của đời sống nông nghiệp ở vùng này. Để làm các lễ vật dâng lên Mẹ, đến gần ngày lễ, người dân Hiền Lương bơi thuyền ra giữa sông Hồng, chọn nơi nước trong nhất múc nước về để chế biến các thứ bánh và lễ dâng Quốc Mẫu. Nghi thức này được người dân tổ chức trang trọng và thiêng liêng.
Trăm thứ bánh làm nên thơm thảo, người dân quanh vùng Hiền Lương tấp nập làm bánh ngọt để dâng lên Mẫu Mẹ. Bánh được làm bằng bột gạo nếp thơm và mật mía ngon, nhào kỹ rồi lăn thành hình tròn dài, cắt thành từng đoạn như đốt tre hấp chín. Một trăm cầu bánh ngọt cùng với xôi nếp, chè lam, 100 phẩm oản bằng xôi nếp, hoa thơm là lễ vật dâng lên Mẫu Mẹ Âu Cơ vào ngày chính lễ. Lễ chỉ dùng đồ chay để dâng Mẫu chứ không dùng đồ mặn.
Sáng mùng bảy tháng giêng, cờ xí rợp trời, trống chiêng vang lừng, hương trầm lan tỏa khắp nơi, dải lụa đào hồng tung bay trên ngọn đa, người người tụ về bên gốc đa già để mở hội. Đúng giờ thìn từ bảy giờ đến chín giờ, đám rước từ đình đến đền Mẫu đến sân đền. Đội rước này là nam giới, đi đầu là những lá cờ thần, sau kiệu là những vị chức sắc, các bô lão mặc áo thụng xanh, áo dài khăn xếp rồi đến dân làng đi trẩy hội.
Đến sân đền chính, đội tế nữ gồm 12 cô gái thanh tân có nhan sắc và học vấn tiến hành nghi lễ tế. 12 cô gái mặc áo dài đủ các màu, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng lụa, chủ lễ mặc hoàn toàn màu đỏ. Sau nghi lễ tế, hội diễn ra với nhiều hoạt động bằng các trò chơi dân tộc như đu tiên, đánh cờ người, chọi gà, tổ tôm…cùng các hoạt động người dân dâng sớ, thắp hương cầu khấn Mẫu Mẹ.
Đền Mẫu Âu Cơ và lễ hội là dịp, là nơi để con dân bách Việt hướng về cội nguồn, tri ân công đức của Quốc Mẫu Âu Cơ, nhân lên đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Để rồi, người dân Hiền Lương còn truyền nhau mãi câu ca: ” Anh em Bách Việt ta ơi !/ Ngày xuân thong thả tới nơi xem tường/Dân ngày hội tế Mẫu Vương/ Người sinh ra tổ Hùng Vương nước nhà”…
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài Văn Khấn Đền Mẫu Âu Cơ Văn Khấn Xin Lộc Ở Chùa, Di Tích Đền Mẫu Âu Cơ trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!