Đề Xuất 4/2023 # Chùa Bà Thiên Hậu – Ngôi Chùa Tiêu Biểu Của Người Hoa Cà Mau # Top 5 Like | Herodota.com

Đề Xuất 4/2023 # Chùa Bà Thiên Hậu – Ngôi Chùa Tiêu Biểu Của Người Hoa Cà Mau # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Chùa Bà Thiên Hậu – Ngôi Chùa Tiêu Biểu Của Người Hoa Cà Mau mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chùa Bà Thiên Hậu – Ngôi chùa tiêu biểu của người Hoa Cà Mau

Chùa Bà Thiên Hậu người dân địa phương còn gọi là chùa Bà Mã Châu tọa lạc tại số 68, Lê Lợi, P.2, thành phố Cà Mau. Ngôi chùa có vị trí đắc địa phía trước giáp ngã 3 sông Cà Mau, chùa Bà Thiên Hậu là công trình kiến trúc tiêu biểu của người Hoa Cà Mau.

Trong suốt hàng trăm năm qua, kể từ những người Hoa đầu tiên vượt biển di dân từ quê hương mình đến nước ta để lập nghiệp, tạo dựng một cuộc sống mới thì họ cũng mang theo không ít nét đặc trưng của nền văn hóa phương Bắc, góp phần làm phong phú hơn cho nền văn hóa nước Nam. Và tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu, hiện vẫn được đông đảo người Việt, nhất là khu vực Nam Bộ và những gia đình người Việt gốc Hoa sùng bái.

Miếu Bà Thiên Hậu được xây dựng ở nhiều nơi trong tỉnh Cà Mau: miếu ở phường 2, TP Cà Mau; miếu ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời; miếu ở xã Phú Hưng, huyện Cái Nước; miếu ở thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình… Trong đó, Miếu Bà Thiên Hậu ở phường 2, TP Cà Mau (người dân quen gọi là Chùa Bà, hay Chùa Bà Thiên Hậu) là nơi được biết đến nhiều nhất.

Có nhiều truyền thuyết về Bà Thiên Hậu, Bà có tên là Lâm Mật Nương, sinh vào ngày 23/3 âm lịch, khoảng năm Công nguyên 960, có dị bản cho rằng Bà tên thật là Mi Châu, vì vậy mới gọi là Mã Châu.

Bà là người phát hiện ra loại rong biển nấu ra thạch làm thức ăn và tìm ra dầu ăn được ép từ cây thuộc họ vừng (mè) giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài. Từ năm 6 tuổi, Bà đã thông thạo Kinh Thư, Kinh Thi, giỏi y lý, biết bốc thuốc chữa bệnh miễn phí giúp dân nghèo. Lớn lên ở vùng biển nên Bà tinh thông khí tượng, thiên văn, thủy triều vì thế các tàu cá, thương thuyền trước khi ra khơi thường tham khảo ý kiến của Bà. Vào ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch năm 988, Bà không bệnh tật mà tự nhiên qua đời.

Người dân ở Phúc Kiến tôn Bà là Thần Biển, nên di cư đến đâu đều lập đền thờ đến đó. Vì thế, nơi nào có nhiều cư dân người Hoa Phúc Kiến sinh sống thường xuất hiện đền, miếu thờ Bà Thiên Hậu. Tương truyền, sau khi Bà thăng thiên, nhiều ngư dân vẫn thấy Bà bay lượn trên biển cả, cứu giúp người bị nạn. Bà được dân gian suy tôn là Thiên Thượng Thánh Mẫu.

Chùa có tên chữ là Thánh Hậu Cung. “Cung”, trong tiếng Hán có nghĩa là “miếu”, nhưng người Việt không quen sử dụng từ “miếu” mà chỉ quen dùng từ “chùa” với ý nguyện nâng giá trị tâm linh của miếu lên một bậc.

Chùa Bà Thiên Hậu được xây dựng năm 1882 bởi những bởi những di dân người Hoa đến sinh cơ lập nghiệp tại Thới Bình, ban đầu, chùa Bà Thiên Hậu chỉ là một mái lá đơn sơ. Năm 1903, Hội người Hoa Cà Mau đã chung sức xây dựng lại với lối kiến trúc đậm sắc thái thời nhà Minh với hình ảnh quả ấn nhìn từ chánh điện.

Bên trong chùa có lối kiến trúc theo thế Thiên tỉnh (Giếng trời). Chùa cất bằng các bệ đá được chở từ cảng Hạ Môn – Phúc Châu (Phúc Kiến, Trung Quốc) sang. Giữa tiền sảnh chùa có dòng chữ đỏ Thiên Hậu Cung (Miếu Thiên Hậu), Hà thanh hải yến (Thiên hạ thái bình), đôi con kỳ hươu tả hữu tượng trưng cho sự bằng an kiết tường.

Trong chính điện, không khí hết sức trang nghiêm, xung quanh có nhiều câu đối màu đỏ, khói nhang luôn nghi ngút, huyền ảo. Giữa chánh điện thờ tượng Bà, bên dưới điện thờ thần Hổ, hai bên tả hữu thờ Thổ thần và Thần hoàng bổn cảnh.

Qua các đợt trùng tu, chùa Bà vẫn giữ nét uy nghiêm, cổ kính ban sơ với những hình tượng, con người… đi từ truyền thuyết. Vẫn mái ngói uốn hình rồng bay, vẫn cột gỗ nhẵn bóng trụ trên phiến đá đẽo gọt công phu, vẫn những bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng ẩn trong quần thể chung đạt nét trầm rất riêng tư…

Hàng năm, vào ngày Vía Bà (23 tháng 3 âm lịch), tại chùa Bà Thiên Hậu thường tổ chức lễ cúng lớn với nhiều nghi thức cúng tế, trong đó, có có lễ tắm tượng, thay xiêm y mới.

Ngoài ra, còn có các hoạt động văn hóa, thu hút khách thập phương đến chiêm bái cầu mong được Bà phù hộ, che chở, làm ăn phát đạt, gia đạo bình an, gặp nhiều điều tốt lành, cuộc sống ấm no…

Các ngày Rằm, đặc biệt là Rằm tháng Giêng, khách du lịch Cà Mau về hành hương hội tụ rất đông để dâng hương, cầu quốc thái dân an, buôn bán thuận lợi, cầu tài lộc, sức khỏe… vay tiền làm ăn, trả lễ tiền vay trước và rước hương lộc về nhà.

Tục Thờ Bà Chúa Xứ Ở Cà Mau

Tuy là vùng đất mới được khai phá nhưng Cà Mau là nơi hội tụ nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian độc đáo và phong phú, trong đó có tục thờ Bà Chúa xứ.

Tục thờ Bà Chúa xứ là hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến ở Nam Bộ, một số miếu thờ nổi tiếng gắn với những lễ hội truyền thống được nhiều người biết đến như: miếu Bà Chúa xứ núi Sam (Châu Ðốc), miếu Bà Chúa xứ núi Bà Ðen (Tây Ninh), miếu Bà Chúa xứ Tháp Mười (Ðồng Tháp)… Những miếu thờ này từ lâu đã trở thành địa chỉ hành hương quen thuộc của đông đảo người dân Nam Bộ. Ðây cũng là những điểm đến tham quan của khách du lịch trong và ngoài nước.

Tại Cà Mau, theo kết quả kiểm kê vào đầu năm 2016, trên toàn tỉnh còn lại hàng chục miếu thờ Bà Chúa xứ được xây dựng quy mô, trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng. Riêng địa bàn TP Cà Mau đã có 14 miếu thờ. Tại các huyện trong tỉnh vẫn còn một số miếu thờ dưới hình thức cộng đồng, nhiều miếu thờ đã có hàng trăm năm, gắn liền với lịch sử khai phá, dựng làng, lập ấp của cư dân địa phương.

Miếu thờ Bà Chúa xứ ở ấp Rau Dừa, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước.

Theo các nhà nghiên cứu, tục thờ Bà Chúa xứ ở Nam Bộ nói chung, ở Cà Mau nói riêng có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ mẫu, sâu xa hơn là tín ngưỡng “cha trời – mẹ đất” cổ truyền của người Việt. Theo chân những lớp người đi khai hoang, mở cõi, hình thức tín ngưỡng này đã được các lưu dân mang theo trong tâm thức, như một “hành trang tinh thần” từ quê cha, đất tổ.

Khi vào đến dãy đất miền Trung lại được giao lưu, tiếp biến văn hoá với tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở (vốn là nữ thần Pô Inư Nagar) của người Chăm, quá trình “Nam tiến” lại tiếp tục diễn ra cùng với sự gặp gỡ giữa các nền văn hoá Việt – Chăm – Khmer – Hoa… Trên vùng đất mới đã làm biến đổi nhiều yếu tố gốc của tín ngưỡng thờ mẫu truyền thống.

Hệ thống miếu thờ Bà Chúa xứ thường có 2 loại, loại miếu thờ của gia đình thường được lập với quy mô nhỏ, trong sân hoặc vườn nhà để các thành viên trong gia đình thờ cúng; loại miếu thờ cộng đồng do dân cư trong xóm góp công góp của xây dựng, ban đầu có thể làm bằng cây lá, khi có điều kiện thì xây dựng bằng bê-tông, cao và rộng để người có thể đi vào sắp lễ cúng kiếng thường xuyên.

Bên trong các miếu thờ thường có tượng Bà Chúa xứ bằng bê-tông ở tư thế ngồi, đặt trang nghiêm chính giữa bệ thờ, đầu đội mão trang trí sặc sỡ, mặc áo hoàng bào hoặc áo lụa thêu rồng phụng, trên cổ đeo nhiều chuỗi hạt, hai bên có lộng che, có khi thêm đôi hạc đứng chầu. Trong khuôn viên một số miếu thờ còn có bàn thờ Thông thiên, bệ thờ thần Nông, thần Hổ…

Bài vị trong các miếu thờ Bà Chúa xứ thường được viết bằng chữ Hán với các danh xưng của Bà: “Chúa xứ nương nương”, hoặc “Chúa xứ thánh mẫu”, có khi là “Chúa xứ bổn cảnh”. Thời Nguyễn, dưới triều vua Gia Long, bà còn được sắc phong là “Linh Sơn thánh mẫu” ghi nhận sự có mặt của tín ngưỡng thờ Bà Chúa xứ trong lịch sử dân tộc. Bà Chúa xứ vừa là một “phúc thần” với chức năng phù hộ sức khoẻ, tiền tài, danh vọng, công việc… nhưng có lúc lại đóng vai một “ác thần” trong những thề thốt, nguyền rũa, trù ếm lẫn nhau của nhân gian.

Tại các miếu Bà Chúa xứ, vào các ngày rằm và mùng 1 âm lịch hằng tháng (ngày Sóc, ngày Vọng) người dân địa phương thường sắp mâm lễ đến thắp nhang khấn vái cầu bình an, sức khoẻ, việc làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu… Lễ cúng thường là trái cây và bánh ngọt, những gia đình có điều kiện cũng cúng lễ mặn như thịt heo, gà, vịt.

Trong sách “Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long”, các tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Ðường đã mô tả hiện tượng thờ Bà Chúa xứ phổ biến ở Nam Bộ trước năm 1990: “Ở Nam Bộ, nhà nào cũng có miếu thờ Bà Chúa xứ, đặt ở góc nhà hoặc góc vườn. Trong rừng U Minh, người dân đốn củi, lấy mật ong cũng thờ Bà Chúa xứ để cầu mong được mạnh khoẻ, tránh được sốt rét, tránh rủi ro trong nghề nghiệp…”.

Ðặc điểm chung của các miếu thờ Bà Chúa xứ ở Cà Mau là hầu hết được xây dựng dọc theo các tuyến sông rạch, thuận lợi cho người dân đi lại để thực hành tín ngưỡng. Nhiều miếu thờ được lập ở ngã ba sông, nơi xuồng ghe thường qua lại, người trong xóm có công có việc đi ngang miếu như được nhắc nhớ vào thắp nén nhang “đi thưa, về trình” với thần linh. Những miếu thờ này không chỉ dành cho người dân địa phương, mà khách thương hồ có dịp đi ngang qua muốn cầu nguyện chuyện gì cũng có thể vào khấn vái để xin Bà phù hộ.

Hoàn cảnh hình thành các miếu thờ ở các địa phương cũng khác nhau, có gia đình do đã lập miếu từ nơi khác, khi di cư đến Cà Mau thì lập lại để thờ; có người do ốm đau, bệnh tật nên người nhà khấn vái cầu xin Bà Chúa xứ phù hộ, đến khi khỏi bệnh liền lập miếu thờ; có người nằm mộng thấy bà hiện về báo điềm lành hoặc điềm dữ đối với gia đình, làng xóm, để thể hiện lòng thành kính nên lập miếu thờ để Bà phù hộ, độ trì…

Có thể nói, tục thờ Bà Chúa xứ là sản phẩm văn hoá tâm linh được hình thành qua quá trình giao lưu, tiếp biến và hội tụ của nhiều làn sóng văn hoá trên vùng đất mới. Ðây là hình thức tín ngưỡng phổ biến trong đời sống dân gian Cà Mau qua nhiều thế hệ, gắn liền với công cuộc khai phá, định cư của người Việt ở vùng đất tận cùng đất nước./.

Bài và ảnh: Huỳnh Thăng

Viếng Miếu Bà Thiên Hậu Ở Vĩnh Châu – Sóc Trăng

Viếng Miếu Bà Thiên Hậu ở Vĩnh Châu – Sóc Trăng

Miếu Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu là ngôi miếu có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Đây là nơi thờ tự theo tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời của bà con người Hoa Vĩnh Châu luôn sùng kính hướng về bà Thiên Hậu mong nhận được chở che, ban phước lành đến mọi người, mọi nhà. Nơi đây rất linh thiêng đối với dân địa phương, nếu có cơ hội du lịch Sóc Trăng bạn hãy một lần đến đây để tham quan, và cầu nguyện.

Bước chân qua cổng tường rào khang trang ta bắt gặp ngay một cặp Lân đá cao khoảng 1m ngồi trên bệ xi măng nhìn thẳng ra đường, chân trước mỗi con đặt trên một quả cầu trong tư thế đang ngồi canh giữ miếu.

Miếu được xây phân bố theo hình chữ tam, ba gian song song mái lợp ngói âm dương. Muốn vào trong điện ta phải qua một mái hiên trước có đôi cột đắp rồng uốn quanh thân, trên thanh xà dọc nối qua đầu cột các thợ người Hoa gắn hình tượng những động vật thủy sản cá tôm bằng gỗ thật khéo léo và sinh động.

Cửa điện gồm 3 ô theo dạng cổng tam quan, cửa chính giữa rộng gồm 2 cánh gỗ dày trên vẽ hình hai nhân vật Uất Trì Cung và Kính Đức. Hai cửa bên mỗi khung một cánh cũng là gỗ dày trên vẽ hình hai nhân vật điển tích mỗi bên.

Bước vào bên trong điện, từ gian trước qua gian giữa cách một khoảng trống gọi là giếng trời có tác dụng lấy ánh sáng và làm thoáng mát không gian bên trong điện thờ.

Chánh điện Miếu bà Thiên Hậu thờ “bà Thiên Hậu”, bên phải thờ “Quan Thánh Đế quân”, bên trái thờ “Tiên Thánh Hiền Triết”. Đây là những vị thần được cộng đồng người Hoa tôn kính thờ phụng.

 Trên viềm mỗi khám thờ nghệ nhân lắp phần cửa vòng trang trí hình hoa dây các loại, được thếp vàng lộng lẫy. Ngăn cách ở giữa ba khám thờ là hai bộ bát bửu bằng đồng vừa trang trí, vừa tạo lối đi riêng cho khách thập phương khi vào làm lễ.

Lễ hội vía Bà được tổ chức hàng năm vào ngày 23 tháng 3 âm lịch (ngày vía Bà), đây là một lễ hội lớn đối với đồng bào Hoa ở Vĩnh Châu. Trong ba ngày (22,23, 24/4 âm lịch) mọi người dâng lễ vật, khói hương để tưởng nhớ đến công ơn của Bà. Ngoài ra, trong lễ hội còn có những hoạt động khác như biểu diễn nghệ thuật hát Tiều của Đoàn Nghệ thuật Châu Quang, lễ Hội đấu đèn lồng…

Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác, đó là thể hiện được bản sắc văn hóa cội nguồn của dân tộc Hoa, vừa làm phong phú thêm đời sống tâm linh của bà con người Việt gốc Hoa. Vì vậy, Miếu Bà Thiên Hậu đã được UBND tỉnh Sóc Trăng ra Quyết định công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh vào ngày 03/6/2004.

Cúng Dường Mandala – Biểu Trưng Của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

Cúng dường Mandala là một pháp khí được sử dụng rộng rãi và phổ biến tại Tây Tạng hoặc các nước có truyền thống Phật giáo Mật tông. Cúng dường Mandala mang một ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho tam thiên đại thiên thế giới. Đây còn là một vật phẩm cúng dường bắt buộc phải có, ngoài ra cũng là một phương tiện thiên xảo để thực hành những pháp tu.

Đặc điểm của cúng dường Mandala

Cúng dường Mandala là một trong số dạng tiêu biểu của Mandala ngoại vi. Đây là một biểu thị trong hệ thống thế giới được dùng việc cúng dường lên người thấy tinh thần trong yêu cầu cho việc giảng dạy và phát nguyện.

Mandala dùng trong cúng dường bao gồm một bát có đáy phẳng được đặt úp. Cùng với đó là ba vành đai hình xuyến có đồng tâm nhỏ dần. Cả ba vành đai được trang trí và thiết kế giống hình dáng chiếc vương miện. Ba vành đai sẽ tượng trưng cho ba thế giới và mang ba ý nghĩa khác nhau. Thế giới của phàm nhân chúng sanh sẽ nằm ở phần dưới cùng của cúng dường Mandala. Lên các tầng trên của là chư Phật, chư Thiên, đỉnh trên cùng tượng trưng cho núi Tu Di (Kailash hay Ngân Sơn).

Mandala cúng dường có thể chế tác từ nhiều loại vật liệu khác nhau, tùy vào khả năng tài chính gia chủ. Đế Mandala tốt nhất thường được cấu tạo từ vàng và bạc. Nếu điều kiện chưa dư dả, đế Mandala cũng có thể làm từ kim loại thường dùng để đúc chuông hay một vài chất liệu tốt khác. Trong trường hợp khó khăn thì ngay cả một phiến đá hay khúc gỗ phẳng, chúng đều có thể làm đế Mandala.

Thực hành cúng dường Mandala

Để cúng dường đủ tiêu chuẩn, trước hết phải cầm đế Mandala bằng tay trái. Cổ tay phải lau mặt đế trong khi trì niệm. Tuyệt đối không sao nhãng và để mắt đến phiền não xung quanh. Tiếp theo, nhỏ một giọt nước lên để bày tỏ sự phát Bồ đề tâm và sự thấm ướt của lòng từ bi. Sau đó đặt vành đai đầu tiên lên mặt đế, đong đầy vật phẩm cúng dường. Tiếp tục thực hiện tương tự với những vành đai còn lại. Khi kết thúc trên đỉnh sẽ được trang hoàng bằng một cái chóp hình giọt nước.

Vật phẩm cúng dường thường lý tưởng nhất là các loại đá quý: ngọc bích, san hô, ngọc trai…xếp thứ hai là các loại trái cây, loại hạt: thóc, gạo, đậu… Đá cuội, sỏi, cát cũng có thể làm vật cúng dường dùng trong trường hợp khó khăn. Dù vật liệu làm cúng dường Mandala hay vật phẩm dâng cúng là gì đi chăng nữa, thì tâm thức quán tưởng mới là thứ quan trọng nhất.

Sau khi cúng dường Mandala, tại các tu viện các Lạt Ma sẽ giữa lại phẩm cúng rồi dùng để ban phước trong lúc gia trình, khai quan cho tượng, Dzi hoặc các pháp khí, trang sức. Ngoài ra phẩm cúng là gạo, thóc, muối, đá quý… bạn có thể rải cho chim chóc, những tầng thế giới thấp hơn cũng được hưởng phước phần từ chư thiên.

The Silk Road Antique

The Silk Road – Chuyên Kinh Doanh Các Sản Phẩm Độc & Lạ, Trang Sức Nghệ Thuật

Địa chỉ showroom: Số 15 Phan Kế Bính, P. Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh

Cách thức mua hàng: Quý khách có thể mua hàng trực tiếp tại showroom hoặc COD nội thành TP. HCM, chuyển khoản thanh toán với các Tỉnh/ Thành phố khác.

Hotline tư vấn: 0918.688.916

Facebook: www.facebook.com/thesilkroad.antique/

Và: https://www.facebook.com/thesilkroad.jewellery

Bạn đang đọc nội dung bài viết Chùa Bà Thiên Hậu – Ngôi Chùa Tiêu Biểu Của Người Hoa Cà Mau trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!