Đề Xuất 3/2023 # Huyền Thoại Về Cô Sáu Linh Thiêng # Top 11 Like | Herodota.com

Đề Xuất 3/2023 # Huyền Thoại Về Cô Sáu Linh Thiêng # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Huyền Thoại Về Cô Sáu Linh Thiêng mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Năm 1947, khi mới 14 tuổi, chị Sáu trở thành chiến sĩ trinh sát của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Tết Canh Dần (1950), Võ Thị Sáu tình nguyện tìm diệt bọn ác ôn chuyên vào chợ Đất Đỏ quê chị để cướp bóc. Diệt được bọn ác ôn này, nhưng Sáu lại bị bọn ác ôn khác đuổi theo, bắt được.

Tháng 4-1950, Võ Thị Sáu bị giam ở khám Chí Hoà. Bọn Pháp mở phiên toà xử chị “án tử hình” khi chưa đủ tuổi thành niên. Pháp sợ dư luận phản đối, nên chúng đưa Võ Thị Sáu ra Côn Đảo để hành quyết. Bốn giờ sáng ngày 21-1-1952, tàu chở Võ Thị Sáu cùng với 40 tù chính trị và 3 tử tù nữa vượt biển ra Côn Đảo.

Ngày 23-1-1952, người tử tù nhỏ tuổi nhất ở Côn Đảo không cho kẻ thù bịt mắt, cất cao tiếng hát bài Tiến quân ca. Khi giặc nổ súng, Võ Thị Sáu thét lên: Đả đảo thực dân Pháp! Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đó là 7 giờ sáng ngày 23-1-1952, Võ Thị Sáu chưa đầy hai mươi tuổi.

Trong hành trang tâm hồn tôi có những câu thơ về Chị Sáu của nhà văn Phùng Quán: Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven đường/ Cài lên mái tóc rối tung/ Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê…/ “Trên cành chim hót chim ơi/ Ta làm cách mạng ta vui đến cùng”… Tuổi thơ tôi ở miệt cát Thượng Luật heo hút ven biển Quảng Bình cũng thuộc bài hát về chị Sáu: “Mùa hoa lêkima nở. Ở quê ta miền Đất Đỏ. Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng. Đã chết cho… mùa hoa lêkima nở… Chị Sáu đã hi sinh rồi. Giọng hát vẫn như còn vang dội. Vào trái tim của những người đang sống. Giục đi lên không bao giờ lui…”.

Năm 1993, Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại thị trấn Đất Đỏ đã dựng tượng Võ Thị Sáu cao 6m. Ở Côn Đảo, mộ chị Sáu ở khu B được xây lại đàng hoàng hơn, là ngôi mộ được nhiều người thăm viếng nhất. Huyện Côn Đảo cũng đã xây dựng Nhà tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trong một khuôn viên rộng, kề bên núi và biển, quanh năm lộng gió.

Nhưng ra Côn Đảo, đến nghĩa trang Hàng Dương, tôi còn được nghe nhiều huyền thoại về chị Sáu. Những câu chuyện linh thiêng, bí ẩn, nhưng ẩn chứa một sự ngưỡng mộ, tôn thờ theo truyền thống Á Đông đối với những người anh hùng vì dân, vì nước đã được bất tử hóa như một vị thần. Những câu chuyện người dân Côn Đảo kể về chị Sáu không có trong sử sách, nhưng còn lưu truyền mãi như những truyền thuyết dân gian…

Mộ chị Võ Thị Sáu tại Khu B2, Nghĩa trang Hàng Dương.

Ở tượng đài Võ Thị Sáu tại thị trấn Đất Đỏ cũng như ở Côn Đảo, người dân quanh năm khói nhang cho cô Sáu. Anh Bảy Oanh, một cựu tù Côn Đảo hiện là Trưởng Ban quản lý Di tích Côn Đảo kể rằng, ở Côn Đảo bây giờ, nam nữ thanh niên trước khi làm đám cưới thường ra Hàng Dương viếng mộ chị Sáu. Họ thắp hương, cúng gương lược, rồi lầm rầm khấn vái mong chị phù hộ cho “đôi uyên ương trăm năm hạnh phúc”.

Hiện vẫn còn vài chục gia đình công chức, gác ngục thời ấy ở lại Côn Đảo, trong nhà họ đều có bàn thờ chị Sáu và coi chị như thần hộ mệnh! Bà con gọi chị Sáu là cô Sáu hoặc bà Sáu. Khi thề bồi thì người ta nói: “Thề có cô Sáu chứng giám”. Khi mắng nhau thì bảo: “Cô Sáu vặn cổ mày đi”! Ngày 23-1 hằng năm là ngày giỗ cô Sáu. Đây là ngày giỗ rất lớn ở Côn Đảo mà Nhà nước và nhân dân cùng tổ chức. Người dân ở mãi TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ, Đồng Tháp…, dù phải vượt biển vẫn ra Côn Đảo giỗ cô Sáu. Trong số họ có rất nhiều người trước đây là cai ngục ở các nhà tù Côn Đảo.

Trong nhà tưởng niệm, ấn tượng nhất là tủ lễ vật bà con cúng giỗ cô Sáu từ nhiều năm qua. Cái tủ kính cao to treo chật hàng mấy chục bộ quần áo dài thiếu nữ đủ màu trắng, xanh, tím hoa cà. Một người dân bảo với tôi: “Vì bà Sáu mất khi còn trinh nữ, lại bị kẻ ác giết oan, nên rất linh thiêng, ai ăn ở hiền lành thì bà phù hộ, ai ác độc thì bà vặn cổ!”.

Trong tủ còn có cái hộp đựng đồ trang sức đầy ắp dây chuyền, bông tai, nhẫn vàng… người dân cúng để cô Sáu làm trang sức. Tôi hỏi cô Thanh Vân – hướng dẫn viên của Di tích: “Dây chuyền, hoa tai này là vàng thật hay giả?”. Thanh Vân trừng mắt: “Thật chứ làm sao giả được. Giả là cô Sáu vật chết ngay à!”.

Những huyền thoại Võ Thị Sáu linh thiêng xuất hiện ngay từ khi cô nằm xuống trên đất Hàng Dương hơn 60 năm trước. Thanh Vân kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về hồn thiêng cô Sáu. Ngày trước, trước mộ cô Sáu có một cây dương già bị khô phần ngọn, chỉ còn gốc cây và một nhánh dương tươi tốt vươn thẳng về phía bắc. Người dân bảo đó là hồn cô Sáu hướng về phía bắc, về Bác Hồ.

Người dân Côn Đảo bảo rằng họ đã từng nhìn thấy cô Sáu bước ra từ cây dương mỗi tối. Cô mặc áo dài trắng, lướt qua từng đường phố, hiện lên trước cửa từng nhà, nhìn tận mặt từng người. Sau khi giám sát mọi việc thiện ác trên đảo, cô Sáu lại trở về biến hình vào cây dương khi trời chưa sáng, trước lúc mọi người thức dậy, đến nghĩa trang Hàng Dương, thắp hương, cắm hoa trước mộ cô trước khi đi làm việc.

Ngay tấm bia mộ cô Sáu cũng có nhiều huyền thoại. Sau hôm cô Sáu bị giặc Pháp giết, kíp tù làm thợ hồ ở Khám 2, Banh 1 đã đúc bia bằng ximăng, dựng trước mộ. Chúa đảo Jarty tức tối dẫn lính lên nghĩa trang đập vỡ tấm bia, cào bằng mộ. Nhưng bọn cai tù không sao hiểu nổi, mỗi lần chúng đập phá bia mộ, ngay hôm sau ngôi mộ và tấm bia lại hiện lên như trước… Dân đảo đồn rằng cô Sáu linh thiêng, không ai có thể phá được mộ cô. Câu chuyện làm cho bọn gác ngục, bọn tù gian sợ sệt, chùn tay. Thực ra mộ và bia mộ đó đều do anh em tù thợ hồ làm trong đêm.

Những người tù già ở Côn Đảo kể rằng, sau khi hành quyết Võ Thị Sáu, người lính lê dương già bỏ ăn suốt hai ngày. Ông ngồi suốt đêm ở gốc bàng đầu Cầu Tàu. Thẫn thờ, hốc hác. Ông tâm sự với người tù làm bồi: “Đôi mắt cô gái đã ám ảnh tôi, và có thể sẽ ám ảnh tôi suốt đời. Tôi phải bỏ nghề, tôi không thể bắn được nữa!”.

Tác giả tại Nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo.

Cô Liễu, vợ tên giám thị Ruby, người đã ngất xỉu khi chứng kiến cuộc hành hình cô Sáu, kể rằng: Xẩm tối hôm 30 Tết, cô lén chồng đem hương hoa lên viếng mộ cô Sáu, bỗng thấy một người con gái mặc áo dài trắng từ một ngôi mộ đi ra. Liễu sụp lạy rối rít. Trên đường về nhà, đi tới đâu Liễu cũng thấy bóng cô gái trước mặt. Thế là Tết ấy, vợ chồng Liễu lập bàn thờ thờ cô Sáu ở nơi trang trọng nhất, sớm tối hương khói. Từ đó nhiều gia đình gác ngục người Việt lập bàn thờ cô Sáu. Họ tin rằng, một người con gái chết trẻ và chết thiêng như thế sẽ hoá thần.

Vợ chồng viên cò Vol Peter tết năm ấy cũng dắt nhau lên mộ cô Sáu trồng khóm hoa dừa, là loài hoa mà Võ Thị Sáu đã vuốt ve ở sân Sở Cò, khi vợ Vol Peter đề nghị chồng cho chị mười phút ra sân hong tóc, tắm nắng chuẩn bị ra pháp trường. Đến hôm nay, những khóm hoa dừa đó vẫn nở bên mộ cô Sáu. Có lần người dân đảo xôn xao về cái chết của tên tù gian Nguyễn Văn Tân. Xác hắn bị treo trên cây bằng lăng trong vườn nhà Giám thị trưởng Passi.

Người ta cho rằng, hắn bị giết chết vì vụ thất thoát 200 ngàn đồng (tiền Đông Dương) của Hợp tác xã Tiêu thụ mà hắn làm kế toán. Nhưng dân đảo thì cho rằng, tên Tân chết là do cô Sáu “bắt” vì hắn là tên hung hăng nhất trong đám đập bia phá mộ cô Sáu!

Cũng thời gian ấy Chúa đảo Jarty bị rơi sao, mất chức vì vụ 200 tù nhân đóng thuyền vượt ngục ở Bến Đầm. Người ta bảo cô Sáu đã “phù hộ” anh em tù đào hầm đóng thuyền vượt biển và trừng trị tên chúa đảo vì hắn quá tàn ác.

Bạch Văn Bốn, tên chúa đảo đầu tiên thời Mỹ – Diệm khét tiếng chống cộng, cưỡng ép tù nhân ly khai cộng sản, cấm viếng mộ cô Võ Thị Sáu. Trong 4 năm Bốn làm tỉnh trưởng Côn Đảo đã có 500 tù nhân bị giết. Hắn biết chuyện cô Sáu linh thiêng, nhưng hắn cho là luận điệu tuyên truyền của Việt Cộng.

Một khuya, Bốn mở cửa Dinh ra sân, hắn thấy một người con gái bước ra Cầu Tàu. Hắn rút súng cầm tay. Chợt cô gái quay phắt lại, bước tới và nhìn thẳng vào mắt hắn. Sợ quá, Bốn bủn rủn chân tay, để rơi khẩu súng, hớt hải chạy vào nhà, đóng cửa lại và lầm rầm cầu nguyện. Từ đó Bốn rất sợ cô Sáu.

Có thằng tên là Nghị mới bị đày ra đảo làm trật tự an ninh, chưa biết oai linh cô Sáu. Hắn nghe lời tỉnh trưởng Lê Văn Thể (thay Bạch Văn Bốn) ra đập phá bia mộ cô Sáu. Hắn đập nát bia, đập luôn lư hương và hai bình cắm hoa. Tất nhiên hôm sau tấm bia mới lại được dựng lên. Còn tên Nghị thì ít hôm sau người ta thấy hắn gầy tóp lại, vật vờ dọc đường phố gần nhà thương. Hắn sốt li bì, không ăn uống gì được.

Nhà thương Côn Đảo không chữa được, làm giấy chuyển hắn vào nhà thương Chợ Quán. Ba ngày sau hắn chết. Tỉnh trưởng Côn Đảo Tăng Tư lên thay Lê Văn Thể. Hắn nghe kể nhiều về cô Sáu nên âm thầm lập bàn thờ cô Sáu tại tư dinh và không dám tàn nhẫn với tù nhân.

Tăng Tư đã một lần dùng oai linh cô Sáu để xử kiện. Hai tên giám thị nghi ngờ nhau ăn trộm, làm đơn kêu kiện. Tăng Tư ra lệnh hai đứa nhảy lên xe ra mộ cô Sáu mà thề, đứa nào gian cô Sáu biết ngay. Thế là có đứa sụp xuống nhận tội!

Chính tên Tăng Tư này đã về Chợ Lớn đặt một tấm bia mộ Võ Thị Sáu bằng cẩm thạch chở ra đảo, làm lễ đặt bia rất long trọng. Tấm bia mộ bằng đá cẩm thạch đó tồn tại được 9 năm, lại bị thằng tù quân phạm tên là Sước nghênh ngang vác búa đập phá. Sáng hôm sau, thấy vắng Sước, người ta đi tìm thì thấy hắn đã nằm chết trên một tảng đá to phía bờ biển!

Chuyện cô Sáu linh thiêng bà con Côn Đảo kể cả ngày không hết. Tôi nhớ trước đây, ở căn hộ của nhà văn Phùng Quán phía sau Trường Chu Văn An có lập một bàn thờ thờ chị Võ Thị Sáu!

Trên bàn thờ có treo một bài thơ dài cắt ra từ Báo Tiền Phong năm 1955, cùng với bức ảnh chị Võ Thị Sáu bên cạnh, đóng khung rất trang trọng. Đó là Trường ca Võ Thị Sáu, giải Nhất cuộc thi sáng tác hưởng ứng Đại hội liên hoan Thanh niên, sinh viên thế giới Vacxava (Ba Lan). Anh Quán thờ bài thơ và chị Sáu từ năm 1982, khi hai vợ chồng dọn về ở đây, như một bảo vật.

Anh thường bảo với tôi: “Cô Sáu thiêng lắm. Hình như cô Sáu bày cho mình biết trước nhiều chuyện tai ương cuộc đời để né tránh, từ sau vụ “nhân văn” ấy…! Võ Thị Sáu dạy mình sống thuỷ chung với lý tưởng mà mình đã chọn: Vệ Quốc Đoàn!

Ngày nào mình cũng thắp nhang trên bàn thờ cô Sáu. Mỗi lần thắp nhang khấn vái cô Sáu, đầu óc mình như sáng láng hơn lên, viết suốt ngày không biết mệt! Vì sự cố nghề nghiệp nên khi in sách mình ký bút danh khác, nhưng cũng kiếm được tiền nuôi các cháu! Ơn chị Sáu to lắm”.

Nghe huyền thoại cô Sáu, tôi cứ miên man nghĩ về sự tồn tại vĩnh hằng của con người. Người như Võ Thị Sáu, dù chết khi còn rất trẻ, nhưng là người sống mãi với nhân dân, với hồn thiêng sông núi.

Những Câu Chuyện Linh Thiêng Về Hồn Cô Võ Thị Sáu

Võ Thị Sáu người thiếu nữ anh hùng của vùng đất Đất Đỏ đã hy sinh oanh liệt ra sao? Những câu chuyện linh thiêng về hồn cô Võ Thị Sáu còn truyền tụng đến ngày hôm nay như thế nào?

“Mùa hoa lê ki ma nở ở quê ta miền đất đỏ…” những ca từ, giai điệu của bài hát ‘Biết Ơn Chị Võ Thi Sáu” một sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, cất lên khiến bao người xúc động về tấm gương anh hùng người con gái Việt Nam kiên trung, bất khuất. Mặc dù Cô Sáu đã đi xa, nhưng theo năm tháng những câu chuyện linh thiêng về hồn Cô Võ Thị Sáu vẫn là đề tài khiến người đời quan tâm cùng những bí ẩn về hiện tượng tâm linh khó lí giải.

“Võ Thị Sáu hay thường gọi là Chị Sáu, Cô Sáu sinh năm 1933 tại thị trấn Đất Đỏ huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa. Sinh ra và lớn lên ở vùng đất giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, Cô Sáu đã không ngần ngại cùng anh trai tham gia cách mạng”.

Năm 1947, khi chỉ mới 14 tuổi, Cô Sáu đã trở thành chiến sĩ trinh sát của đội Công An xung phong Đất Đỏ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế cho kháng chiến. Trong khoảng thời gian đó, Cô Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu bảo vệ quê hương, phát hiện gian tế, phát giác tay sai của Pháp, giúp đội Công An thoát khỏi nguy hiểm, chủ động phòng thủ và tấn công giặc.

Vào đầu năm Canh Dần (1950) trong đợt diệt bọn ác ôn Cô Sáu đã bị quân giặc vây bắt. Trong hơn 1 tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, dù chị tra tấn hết sức dã man, Cô Sáu vẫn một mực không khai báo. Bọn giặc phải chuyển cô Sáu vào khám Chí Hòa để giam giữ (4 – 1950).

Một năm nữa sắp qua đi là lúc mỗi người nhìn lại mình, tìm đến những địa điểm linh thiêng để tạ lễ, trả lễ sau một năm được phù hộ. Côn Đảo những ngày cuối năm là thời điểm đón và phục vụ nhiều lượt khách đến đi lễ và du lịch nhất trong năm.

Sau đó chúng mở phiên tòa xét xử và phán “án tử hình”, án được thi hành vào ngày 23-1-1952 tại Côn Đảo, người tử tù nhỏ tuổi nhất đã hy sinh nhưng đến phút cuối vẫn anh dung hiên ngang và khí chất quật cười.

Hơn 60 năm đã trôi qua, tên tuổi của Cô Sáu đã được sử sách ghi lại, đường phố, trường học,… mang tên Cô. Tuy nhiên, cho đến hiện tại nhưng giai thoại, những câu chuyện về sự linh thiêng về hồn cô Võ Thị Sáu vẫn là đề tài được đông đảo người dân hết mực quan tâm, những câu chuyện không có trong sử sách nhưng vẫn được lưu truyền mãi như những truyền thuyết dân gian.

1. Cây dương bên Mộ Cô Sáu

Qua lời của cô Thanh Vân một hướng dẫn viên tại Côn Đảo kể lại, trước đây, nơi mộ của Cô Sáu có 1 cây dương già bị khô phần ngọn, chỉ còn gốc cây và 1 nhánh dương tươi vươn thẳng về phía Bắc. Người ta cho rằng đó là hồn của Cô Sáu hướng về miền Bắc, về Bác Hồ. Người dân Côn Đảo đã từng nhìn thấy Cô Sáu bước ra từ cây dương mỗi tối. Cô mặc chiếc áo dài trắng, lướt qua từng đường phố, hiện lên trước cửa từng nhà. Sau khi giám sát mọi việc thiện ác trên đảo, Cô Sáu lại trở về biến hình vào cây dương khi trời chưa sáng.

Ở tượng đài Cô Sáu nơi thị trấn Đất Đỏ cũng như ở Côn Đảo người dân quanh năm khói hương cho Cô. Có người kể lại rằng, ở Côn Đảo bây giờ nam nữ thanh niên trước khi kết hôn đều đến thắp hương tại nghĩa trang Hàng Dương, thắp hương trước mộ Cô Sáu khấn vái Cô Sáu phù hộ độ trì cho đôi uyên ương trăm năm hạnh phúc.

Đa phần người dân ở Côn Đảo nhà nào cũng lập bàn thờ thờ Cô Sáu xem cô như vị thần hộ mệnh. Ngày 23-1 hàng năm là ngày giỗ Cô Sáu, đây là ngày giỗ rất lớn ở Côn Đảo.

2. Người lính lê dương già

Những người tử tù già ở Côn Đảo kể lại rằng sau khi hành quyết Cô Sáu người lính lê dương già phải bỏ ăn suốt 2 ngày, ngồi suốt đêm ở đầu Cầu Tàu thẫn thờ ngây dại, ông tâm sự đôi mắt to của cô gái đã ám ảnh ông và sẽ ám ảnh mãi đến hết cả cuộc đời, ông sẽ phải bỏ nghề vì không bắn được nữa.

3. Chuyện cô Liễu vợ tên giám thị Ruby

Chuyện kể lại rằng ngày trước, vào tò mò tối của đêm 30 Tết, Cô Liễu vợ của tên giám thị Ruby lén đem hương hoa lên thắp nhang trước mộ Cô Sáu thì bỗng dưng thấy có người con gái mặc áo trắng bước từ trong mộ đi ra, cô Liễu thấy vậy vội quỳ xuống lạy lấy lạy để. Suốt quãng đường về nhà đi tới đâu cô Liễu cũng thấy bóng cô gái trước mặt. Cô Liễu về kể lại với chồng, vậy nên cả hai vợ chồng năm đó bắt đầu lập bàn thờ Cô Sáu ở nơi trang nghiêm nhất, sớm hôm lo hương khói.

4. Tên chúa đảo Bạch Văn Bốn

Tên chúa Đảo Bạch Văn Bốn thời Mỹ – Diệm là tên chúa đảo đầu tiên khét tiếng chống cộng, cưỡng áp tù nhân ly khai cộng sản, cấm không cho viếng thăm mộ Cô Sáu. Trong suốt 4 năm làm tỉnh trưởng Côn Đảo đã có 500 tù nhân bị giết. Hắn biết chuyện Cô Sáu linh thiêng, nhưng hắn cho là luận điệu tuyên truyền của Việt Cộng. Đêm khuya hôm ấy hắn mở cửa Dinh ra sân, hắn thấy một người con gái bước ra Cầu Tàu, hắn rút súng cầm tay. Chợt cô gái quay lại, bước tới và nhìn thẳng vào mắt hắn. Sợ quá, hắn bủn rủn tay chân, để rơi khẩu súng hớt hải chạy vào nhà, đóng cửa lại và cầu nguyện. Từ đó hắn rất sợ Cô Sáu.

Nếu để kể những chuyện linh thiêng về hồn cô Võ Thị Sáu, người dân Côn Đảo có thắp đèn một ngày một đêm kể vẫn không hết, những câu chuyện mà bất kỳ người dân Côn Đảo nào khi ngồi lại vẫn có thể kể một cách rành mạch và lưu loát. Cho đến thời điểm hiện tại, không chỉ có người dân Côn Đảo mà còn có người dân tứ phương đều muốn được một lần đến với Côn Đảo viếng mộ, thắp hương cho Cô Sáu, nghe những câu chuyện linh thiêng về hồn cô Võ Thị Sáu và hơn hết là mong cầu sự phù hộ mà Cô Sáu mang lại.

Thiết nghĩ, dù cho năm tháng có đi qua nhanh như thế nào thì những trang sử hào hùng vẫn còn đó, người con gái Đất Đỏ vẫn mãi nơi nghĩa trang Hàng Dương kèm theo những câu chuyện tâm linh và giai thoại còn mãi với thời gian.

Viếng thăm nghĩa trang Hàng Dương, thắp nén hương thơm trước mộ cô Võ Thị Sáu và cầu nguyện trước anh linh Cô dường như là điều mà tất cả các du khách đều mong muốn trong chuyến hành trình du lịch Côn Đảo của mình. Hiện nay, công ty Ánh Dương Tour đang triển khai tour du lịch Côn Đảo Tâm Linh 3 ngày 2 đêm dành cho Qúy du khách có nhu cầu đến với Côn Đảo.

Ghi rõ nguồn chúng tôi khi đăng tải lại bài viết này.

Miếu Bà Chúa Xứ Châu Đốc – An Giang: Huyền Bí &Amp; Linh Thiêng

Cách trung tâm thành phố Châu Đốc khoảng chừng 7km về phía Tây tại chân Núi Sam, của phường Núi Sam. Miếu Bà Chúa Xứ là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1980. Đặc biệt, đây là điểm du lịch văn hóa tâm linh nổi tiếng nhất miền Tây Nam Bộ được nhiều người biết đến.

Theo đó, thì miếu Bà được xây dựng vào những năm khoảng đầu thế kỷ XVIII (thời vua Gia Long) bằng nguyên vật liệu đơn sơ. Năm 1870, ngôi miếu được mở rộng quy mô trên nền đất cũ và xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Đến năm 1962 thì tiếp tục được người dân quyên góp tiền của tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. 

Khoảng gần 3 năm sau đó (1965), miếu Bà tiếp tục được “Hội quý tế” cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện. Đến năm 1972, hai kiến trúc sư nổi tiếng Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng đã tái thiết lớn ngôi miếu trên bảng vẽ của mình trong khoảng thời gian 4 năm trên một dáng vẻ mới rất uy nghi đầy lộng lẫy.

Từ năm 1976 trở đi, Miếu Bà tiếp tục được nhiều lần mở rộng, trùng tu và xây dựng. Đến nay, sau bao lần kiến thiết, ngôi miếu man tổng thể kiến trúc dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. 

Riêng không gian bên trong miếu được thiết kế với võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban quý tế  nhiều phòng khác. Nổi bật trong phong cách kiến trúc này là các hạng mục đều mang đậm nét nghệ thuật Ấn Độ khi được thiết kế và trang trí nhiều hoa văn nguy nga trên cổ lâu chính điện, phía trên cao là các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giang tay đỡ những đầu kèo. Và đặc biệt là các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo, nhất là có nhiều liễn đối, hoành phi được họa tiết rực màu vàng son.

Thông thường, khi nhắc đến địa điểm văn hóa, tâm linh của miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam này. Thì người ta thường nhắc đến hai câu liễn vang danh khắp bốn phương t Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị, Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng”. Giải nghĩa: “Cầu nhất định được, ban nhất định linh, báo mộng cho biết, người Xiêm phải sợ, người Thanh phải nể, không thể tưởng tượng nổi”. 

Chính từ điều này mà sau được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1980. Trung tâm sách kỷ luật Việt Nam đã công nhận là công trình có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại Việt Nam. 

Gần 30 sau (2009), thì sách Kỷ lục An Giang tiếp tục ghi nhận, tượng Bà Chúa Xứ là “pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam”, và “có áo phụng cúng nhiều nhất” trong những tượng thờ ở miền Tây.

Vài nét về Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam

Ly kỳ về những truyền thuyết không lời giải về Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam

Có thể nói rằng, trong số những câu chuyện tâm linh, huyền bí chưa lời giải mã của vùng đất Thất Sơn thì Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là nơi lưu giữ nhất. Những câu chuyện này có thể không dài, nhưng sự huyền bí của nó có thể làm nhiều người kinh ngạc vì không hiểu lí do vì sao. Trong đó, chuyện Bà Chúa Xứ giúp Thoại Ngọc Hầu đào kênh Vĩnh Tế, tướng giặc Xiêm mất mạng và chuyện 9 cô gái đồng trinh dời tượng Bà xuống núi là một điển hình. 

Chuyện vợ Thoại Ngọc Hầu (Châu Thị Vĩnh Tế) lập đàn làm lễ cầu xin bà

Ly kỳ truyền thuyết về Miếu Bà Chúa Xứ tỉnh An Giang

Đến nay, ngôi miếu ra đời vào thời gian nào vẫn còn là một dấu hỏi với nhiều người. Tuy nhiên, theo nhận định của một số nhà nghiên cứu thì Miếu Bà Chúa Xứ được nhân dân xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, thời vua Minh Mạng mà tiêu điểm là khi ông Thoại Ngọc Hầu vâng mệnh vua về trấn giữ vùng đất Tây Nam và đào con kênh Vĩnh Tế để nói Châu Đốc và Hà Tiên, đồng thời thông thoáng giao thông trong việc giao thương, mua bán. Cụ thể trong ghi chép nói rõ: …

 “Năm 1816, khi đắp xong thành Châu Đốc, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên vua Gia Long địa đồ miền đất mới. Xem xong, vua liền truyền: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to”. Không lâu sau, vua Gia Long hạ lệnh cho đào con kênh Vĩnh Tế để nối liền Hà Tiền và Châu Đốc. Người được triều đình Huế giao trọng trách đào con kênh vĩ đại này chính này là Thoại Ngọc Hầu.

Vâng lên vua, Thoại Ngọc Hầu cùng nhiều quan viên phụ trách bắt tay vào thực hiện. Sau khi hoàn thiện kế hoạch, công trình có chiều  dài hơn 100km, rộng gần 50k chính thức khởi công vào ngày 15 tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819). Hơn 80,000 nhân lực gồm người Việt, người Khmer và bộ phận người Chăm từ Campuchia theo chân tướng quân Lê Văn Đức về cư trú tại vùng đất Châu Đốc được điều động vào công trình này. 

Thực hiện được một thời gian ngắn, khoảng độ được hai tháng thì liên tục gặp trục trặc. Nhiều người chết do tai nạn, bệnh tật hoặc bị thú dữ tấn công mà không có cách nào khắc phục được.

Thoại Ngọc Hầu rất lo lắng và tìm mọi cách để giải quyết. Đang lúc bối rối thì vợ ông, bà Châu Thị Vĩnh Tế được dân mách bảo là đến dâng lễ cầu xin Bà Chúa Xứ ở chân núi Sam phù hộ. Do đã nghe tiếng linh thiêng bà đã lâu, nên khi được dân mách bảo, bà Vĩnh Tế  liền làm lễ, dâng hương đến miếu cúng bái, cầu xin. Quả thật, sau khi dâng lễ xong thì việc đào kênh trở nên thuận lợi và dễ dàng. Những người tham gia công trình đào kênh thấy vậy rất phấn khởi nên công trình được đẩy nhanh tiến độ.

Mặc dù công trình đào kênh vẫn chưa hoàn thiện, nhưng để tạ ơn công đức Bà. Vợ chồng bà Vĩnh Tế đã cho xây dựng lại ngôi miếu to và khang trang hơn và thường xuyên đến khấn vái cầu cho ông Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ yên bình cho nhân dân. Cũng từ đó, danh tiếng về sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ được nhiều người truyền đi khắp nơi, khiến làm nhiều người ở xa nghe tin tìm đến cầu xin bà độ trì, ban phước.

Giặc Xiêm mất mạng vì dám xúc phạm đến Bà và chín cô gái đồng trinh đưa Bà xuống núi

Truyền thuyết Bà Chúa Xứ ở Núi Sam – An Giang

Chuyện kể, những năm 1820 – 1825, quân Xiêm thường xuyên quấy nhiễu nước ta, có lần chúng đuổi theo dân lên đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà. Nổi lòng tham, chúng muốn đem về nước nên ra sức khiêng tượng Bà xuống núi. Đi được một đoạn thì lạ thay tượng Bà nặng trĩu, không cách nào có thể nhấc lên được. 

Tức giận, một tên tướng rút đao chém gãy tay trái của bà, ngay lập tức hắn bị Bà trừng phạt, học máu chết ngay tại chỗ. Đám lính đứng xung quanh thấy vậy liền tái mặt, hoảng hồn bỏ chạy tán loạn, không một tên nào dám đứng lại.  

Kể từ đó, Bà thường hiện về tự xưng là Bà Chúa Xứ báo mộng cho dân và dạy dân cách lập miếu thờ để Bà phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp, thoát khỏi dịch bệnh. 

Trước đây, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Trước sự linh ứng và mách bảo của Bà, người dân quyết định khiêng tượng Bà về đồng bằng để thờ cúng. Để di dời tượng bà, sau khi làm lễ cúng bái xong thì hơn 40 chàng trai lực lưỡng được điều vào khiêng tượng Bà xuống nhưng không cách nào nhấc lên được.

Đang lúc bối rối không biết làm sao hì có một cô gái “lên đồng” bảo rằng Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng là được. Quả thật như vậy, khi chín cô gái đồng trinh đưa tay cùng nhất thì tượng Bà bỗng rất nhẹ. Khiêng một hồi lâu, đến chân núi thì tượng Bà bất ngờ nặng trịch, không thể khiêng một bước nào nữa. Lúc này các bậc cao niên nghĩ rằng Bà chọn nơi đây để an vị và lập miếu thờ cúng ngay tại chỗ.

Sau khi di dời tượng Bà xuống chân núi Sam, ngôi miếu hàng năm được nhân dân thờ cúng trang nghiêm và thường xuyên tu bổ, tôn tạo. Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn không lý giải nổi là tượng bà từ đâu mà có. Ai đã đúc và đem đến đây. Do đó mà sự linh thiêng, huyền bí về Bà được nhiều người sợ hơn và thêu dệt lên bao câu chuyện.

Lời giải về sự xuất hiện của pho tượng Bà Chúa Xứ

Để tìm lời giải thích cho pho tượng thì năm 1941, một nhà khảo cổ học người Pháp tên Malleret đã đến nghiên cứu và cho rằng: “tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, chất lượng bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ VI, và rất có thể đây một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo”.

Bên cạnh công trình nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Pháp, trong công trình “Sơ khảo Đồng Bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa”, cố nhà văn Sơn Nam cũng đưa ra nhận định: “tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy”.

Dựa trên cơ sở nghiên cứu của nhiều người đi trước, trong công trình nghiên cứu khoa học “Lịch sử khai phá vùng đất Châu Đốc” của ông Trần Văn Dũng cũng khẳng định: “Tượng Bà Chúa Xứ thực ra là tượng nam, ngồi ở tư thế hương giả, phần đầu của tượng hiện đang thờ tại miếu Bà không phải là nguyên gốc được chế sau bằng loại đá khác với thân tượng”.

Qua những nghiên cứu này thì có thể nói rằng, Tượng Bà Chúa Xứ đã có cách đây hơn 1.300 năm (lấy mốc thế kỷ VI của nhà khảo cổ học người Pháp), khi nền văn hóa Óc Eo còn thịnh vượng. 

Trải qua khoảng thời gian hơn 200 năm mưa nắng với thời gian. Ngày nay,  Miếu Bà Chúa Xứ không chỉ đóng vai trò ý nghĩa tâm linh to lớn đối với người dân An Giang mà còn là chỗ dựa tâm linh vững chắc cho nhân dân trong khắp cả nước. Người hành hương đến viếng Bà bằng tất cả sự tôn kính để cầu mong cuộc sống được an yên, ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam An Giang

Lễ vía Bà Chúa Xứ Núi Sam 2019

Hàng năm, cứ đến ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch thì ban quản lý cùng chính quyền nơi đây tổ chức lễ hội Vía Bà Chúa Xứ rất trang trọng. Thời gian lễ hội diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch với 5 nghi thức lễ khác nhau để người dân đến kính viếng, xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà… về làm ăn. Cụ thể lễ hội vía Bà Chúa Xứ gồm các phần như sau:

Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.

Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.

Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).

Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.

Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.

Với nét tâm linh, tín ngưỡng đặc sắc của lễ hội vía Bà, năm 2005, lễ hội Vía Bà (lễ hội vía bà Chúa Xứ) được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.

Travel writer

Blogger Q.T

Văn Khấn Mộ Cô Sáu Tại Côn Đảo Chuẩn Tâm Linh

Văn khấn mộ cô Sáu tại Côn Đảo như thế nào? Cách sắm lễ khi đi thăm viếng mộ cô Sáu ra sao là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm của bạn đọc. Để biết thêm chi tiết về vấn đề này mời bạn theo dõi bài chia sẻ sau đây của nhandinhbong.net.

Cô Sáu thần hộ mệnh của người dân Côn Đảo

Người dân tại Côn Đảo luôn rất kính trọng 2 vị anh hùng liệt sĩ một là bà Phi Yến và cô Võ Thị Sáu. THông thường hàng năm người dân Côn Đảo thường tổ chức các lễ hội khác nhau. Trong đó cứ đến ngày giỗ cô Sáu và bà Phi Yến thì mọi người đều tổ chức lễ viếng mộ thắp nhang và đọc văn khấn mộ Cô Sáu để tưởng nhớ những công lao của người nữ anh hùng liệt sĩ này.

Chuẩn bị đồ lễ viếng thăm mộ Cô Sáu

Việc sắm lễ viếng mộ cô Sáu hoàn toàn tùy thuộc vào lòng thành tâm của mỗi người. Tuy nhiên bạn không thể thiếu 7 đồ lễ sau đây:

1 nón lá

1 sấp giấy tiền vàng bạc tổng hợp

1 bộ lược gương

1 sấp các thỏi vàng

1 chai nước suối

1 bó nhang

Quan trọng nhất là 1 bó hoa trắng

Văn khấn mộ cô Sáu chuẩn tâm linh

Bài văn khấn cô Sáu có nội dung như sau:

Kính lạy:

Ngài Kim niên Đương Cai Thái Tuế Chí Đức Tôn thần, Kim Niên Hành Binh, Công Tào Phán Quan.

Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương.

Ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa Tôn Thần.

Các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ Long Mạch Tôn Thần, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ cùng liệt vị Tôn Thần cai quản ở trong xứ này.

Con là (tên của bạn)………………………………………………………………….

Địa chỉ…………………………………………………………………………………………………..

Sắm sanh phẩm vật, hương hoa phù tửu lễ nghi, trình cáo Tôn thần, kính viếng vong linh là: Cô Sáu

Phần mộ ký táng tại nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo.

Nay nhân ngày………………(Ví dụ: Cuối năm, hoặc Thanh minh, hoặc thăm mộ) con xin cúi lạy Thần Linh đất này, Thành Hoàng Bản Thổ nơi đây, đất lành chim đậu, đức dày thanh cao, giữ lành công lao, có kết có phát nhờ vào thần quan, tôn thần long mạch cao sang, nhị thập tứ hướng nhị thập tứ sơn quanh vùng.

Chọn đây an táng mộ phần, thỏa yên muôn thủa, hồng ân đời đời, gia ân mãi mãi không thôi, chúng con xin có vài lời cầu xin: Bái tạ thủ mộ thần quan, cho chân linh dưỡng cho hài cốt nguyên vẹn toàn, phù hộ con cháu trần gian, an khang mạnh khỏe ăn làm gặp may. Âm dương cách trở, bát nước nén hương, biểu tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.

Phục duy cẩn cáo!

(Khấn 3 lần rồi đốt vàng tiền).

Bạn đang đọc nội dung bài viết Huyền Thoại Về Cô Sáu Linh Thiêng trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!