Cập nhật nội dung chi tiết về Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân Thờ Xá Lợi Của Sư Bà Hải Triều Âm mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nguyên Hà trân trọng kính chào qúi thính giả,
Trong chương trình phát thanh
Global Saigon HD Radio (The first Vietnamese HD Radio in the world)
hôm nay của ngày đầu năm 2018, chúng tôi xin kính mời qúi thính giả cùng chia xẻ
Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân
THỜ XÁ LỢI CỦA SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM
Tại Chùa Hương Sen, Perris, CA, USA
Sẽ Khởi công vào năm 2018 (nhạc)
Kính Thưa qúi vị,
Trước hết kính mời qúi vị theo dõi phần tiểu sử của Sư Bà Hải Triều Âm.
Sư bà Hải Triều Âm (1920-2013)
Sư Bà Hải Triều Âm mang hai dòng máu Pháp-Việt, thế danh là Nguyễn Thị Ni, tên thế tục Pháp là Ơ Gien Ni Ca ta lan (Eugenie Catallan), sanh tại tỉnh Hà Đông Hà Nội. Thân phụ của Sư Bà là cụ ông Ê liên Catalan (Eliene Catallan), là một công chức người Pháp. Thân mẫu của Sư Bà là cụ bà Nguyễn Thị Đắc là một y sĩ người Việt. Sư bà sanh trưởng trong một gia đình đạo hạnh nề nếp gia phong, được hun đúc một đời sống lễ nghi phong đường của truyền thống Châu Á. Sư bà được hấp thụ kiến thức văn hóa sâu rộng từ nền giáo dục Tây Phương, với một cung cách sống trong khuôn phép nhưng phóng khóang, lịch sự nhưng cương trực.
Sư bà Người là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, Cô Eugénie trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình.
Với một tâm hồn từ bi nhân hậu, lúc nào cũng quan tâm tới những mảnh đời bất hạnh khó nghèo bệnh họan đầy đau khổ. Với trí tuệ uyên bác của một bậc trí thức mang hai dòng máu Đông Tây, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni sớm dấn thân vào những công tác từ thiện xã hội để giúp đỡ an ủi những con người bất hạnh.
Sư Bà là một trong những vị sáng lập và và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ.
Sư bà thường viết bài cho báo Bồ Đề của sư cụ Thích Tuệ Nhuận với bút hiệu Cát Tường Lan, đưa những ý tưởng Phật pháp thực tiễn để chuyển hóa tư tưởng cho các giới thanh thiếu niên giữa thời kỳ giao thoa giữa Nho giáo và Tây học.
Rồi tới một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp.
Sư Bà quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng và được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Đến năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, xin xuất gia với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
Năm 1952, vâng lời Hòa thượng bổn sư, Sư Bà vào Nam, nhập chúng tại ni trường Dược Sư, Gia định Saigòn, do cố hòa thượng Thích Thiện Hóa sáng lập, dưới sự giảng dạy của các bậc thày nổi tiếng đương thời là hòa thương Thiện Hoa. Tại đây, sư bà vừa lo tu học tinh trì giới luật, vừa lo phụng dưỡng mẹ già bị bán thân bất tọai, vừa đảm trách việc giảng dạy cho các Phật tử, đồng thời, sư bà vẫn chuyên tu quán Tứ Niệm Xứ để khai thông tuệ giác, dụng sở đắc về bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Năm 1962, sau khi thân mẫu qua đời, để thể hiện tấm lòng hiếu tử, sư bà đến nương thịnh đức hòa thượng Thích trí Tịnh ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức. Ròng rã suốt 5 năm nhập thất với nguyện vọng thể nhập Niệm Phật Tam Muội. Năm 1968, noi gương tổ Huệ Viễn, hòa thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh Độ ở thôn Phú An, Đức Trọng Lâm Đồng, mời sư bà về để cùng với một số ni chúng thành lập xã Hoa Sen. Nơi đây sư bà nhập thất và chuyên tâm niệm Phật tại tịnh thất Linh Quang.
Năm 1970 HT Thích Thanh Từ mở khóa tu thiền 3 năm tại thiền viện Chơn Không ở Vũng Tàu. Sư bà là một trong 10 vị đầu tiên được chiêu sinh. Nơi đây, sư bà ngộ được tôn chỉ “Chi vọng vọng tan, chính là quán hạnh Tứ Niệm Xứ. (nhạc)
Sở trường của sư bà là pháp môn “Nhĩ căn viên thông” (Bồ tát Quan Thế Âm) kết hợp với Niệm Phật Chiếu Kiến Tam Muội (định Niệm Phật). Sư bà nghiêm trì giới luật (chân thành giữ 348 giới như băng sương), sư bà không giữ tiền bạc, chỉ độ ngọ trước 12 giờ trưa, (sau 12 giờ không ăn), Sư Bà tích cực đề xướng và tham gia các công tác từ thiện, ấn tống, dịch thuật và biên soạn toát yếu tới cả 100 đầu sách (có giá trị giác tỉnh hướng nội, buông xả tuyệt đối không theo duyên trần bên ngoài), và đặc biệt có duyên độ đệ tử ni xuất gia với số lượng lên tới cả ngàn vị (Sư Bà là bậc sư trưởng có số đệ tử ni đông nhất trong thế kỷ hiện nay). Nơi tĩnh tu và độ chúng của sư bà là Ðại Ninh, Lâm Ðồng với các chùa như Linh Quang, Hương Sen, Dược Sư…
Sư bà mở thêm 9 cơ sở tự viện từ Ni Liên, Linh Quang, Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Dược Sư 2. Phật từ khắp nơi tìm về qui y nhiều không kể xiết.
Sư Bà Biên sọan, dịch thuật các kinh điển để làm tài liệu giảng dạy. Tóm lược các bộ kinh lớn cho phật tử dễ hiều như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, luật tạng như hai cánh nhà Ni đến luận tạng như Lăng Nghiêm Chính Mạch, tất cả lên tới cả trăm tựa sách, nhưng người lại ẩn danh, không để tên của mình.
Với Ni chúng, Sư bà Lấy Bát Tính Pháp làm tòng lâm thị phạm, lấy Tứ Niệm Xứ làm pháp môn quán hạnh, lấy niệm Phật làm chìa khóa tu trì. Các kinh quan trọng như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Di Đà, Lăng Già, v.v…Danh tiếng và đạo hạnh của Sư Bà vang tới khắp nơi trên thế giới.
Sư bà là bậc lương đống cho hàng hậu học ni chúng, là tấm gương sáng của một bậc Trưởng lão Ni, hết lòng tôn kính Phật – Pháp – Tăng, tận tình vâng theo lời Phật dạy, nghiên cứu đạo pháp, truyền bá giáo pháp. Đối với Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, luôn luôn dạy dỗ hàng đệ tử ni suốt đời phải thực hành Bát kính pháp, sống lục hòa, trên kính dưới nhường, giữ giới Tỳ-kheo-ni tinh nghiêm, lấy Giới – Định – Tuệ làm sự nghiệp chính của mình, là nơi quy ngưỡng của nhiều người.
Sư bà an bình viên tịch lúc 11 giờ 56 phút ngày 24/6/ năm qúi tỵ nhằm ngày 31/7/2013 hưởng thượng thọ 94 tuế thế. 60 hạ lạp.
Những Điều Mầu Nhiệm về sư bà Hải Triều Âm:
Trước khi viên tịch, Sư Bà dặn dò rằng chỉ sau khi sư bà hết thở 24 giờ đồng hồ thì mới thông báo tin tức cho đại chúng biết, và theo đúng lời của sư bà đã dạy, tất cả ni chúng đều đã nhận thấy các điều màu nhiệm đầu tiên như :
** Sau 24 tiếng, nhục thân của sư bà vẫn mềm mại. sắc diện vẫn hồng hào phương phi như lúc còn sanh tiền. Gương mặt vẫn nhẹ nhàng tươi tắn thanh thóat.
Điều nhiệm màu khác là trong 6 ngày đầu tiên, sau khi sư bà viên tịch thì trên đỉnh bảo tháp nơi chùa Dựoc Sư VN luôn xuất hiện vầng hào quang trước sự chứng kiến của tất cả chư tôn đức, tăng ni và hàng phật tử từ khắp nơi về chùa tham dự tang lễ. Vòng tròn ngũ sắc rực rỡ lan tỏa chung quanh ánh sáng mặt trời. Vào ngày kim quang của sư bà nhập bảo tháp, trong vòng hào quang còn xuất hiện một đóa hoa sen trắng. Khi tìm hiểu về hiện tượng này thì được biết, trước khi viên tịch, thì sư bà đã để lại di tích báo trước về những điềm lành này. Mặt khác, vào ngày vía của đức văn thù sư lợi bồ tát mồng 4/4 năm qúi tỵ tức là ngày 13/5/2013, cũng là ngày kỷ niệm 60 năm xuất gia của sư bà, một vầng hào quang xuất hiện rực rỡ trên đỉnh bảo tháp kéo dài từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.
Trước ngày viên tịch, đệ tử hỏi thì sư bà đã cho biết trước rằng sư bà đã nhìn thấy đức A Di Đà, đức Văn Thù sư lợi bồ tát, đức phổ hiền bồ tát cùng với rất đông đảo các thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn hương linh của sư bà.
Đệ tử hỏi : – Thưa, chừng nào sư bà đi theo đức văn thù ?
Sư Bà trả lời : – Đi ngay bây giờ, đừng đợi chờ.
Hỏi : – Bên cạnh đức Văn Thù Sư Lợi, còn có vị nào khác đi theo ?
Sư Bà trả lời : – Còn nhiều lắm.
Hỏi : – Thưa Sư Bà có thấy Đức Phật Di Đà tới đón không?
Sư Bà trả lời : – Có thấy.
Hỏi : Đức Phật Di Đà đến đón ngài mặc áo màu gì?
Sư Bà đáp : – mặc áo màu trắng.
Trong suốt 7 ngày sau tang lễ, mỗi tuần đều có hào quang xuất hiện trên nền trời. Riêng tuần lễ thứ tư, ngòai ánh hào quang, còn có đám mây ngũ sắc hiển hiện bên cạnh những áng mây trắng xóa trên nền trời.
Tất cả những hiện tượng này sư bà đều đã biết trước và đã viết xuống qua bút tích mà người đã lưu lại vào ngày 6/7/2009.
Sư Bà còn dặn dò rằng : – Khi nào các con nhớ đến thày, hãy đi kinh hành qua bảo tháp, hãy ngồi thiền quanh bảo tháp niệm Phật và chiêm nghiệm lời Phật dạy để tăng trưởng đạo tâm.
Đức phóng sanh của Sư bà thì vô lượng, đi tới đâu, sư bà cũng phóng sanh rất nhiều các lòai sinh vật và không quên qui y cho chúng. Tấm lòng của Sư bà nhân hậu từ bi, yêu thương, gần gũi ủi an tất cả mọi người không bao giờ phân biệt giả trẻ, lớn bé, nam nữ. Sư bà nhắc nhở rằng : “Tu môn nào cũng phải thấy rõ Phật Tánh rồi mới có thể thành Phật được.”
Ni sư Giới Hương là một trong hàng trăm đệ tử xuống tóc xuất gia với sư bà Hải Triều Âm. Ni Sư đã lập nên chùa Hương Sen (như tên chùa Hương Sen gốc ở Đại Ninh) thuộc thành phố Perris, tiểu bang California, cách Phước Lộc Thọ hơn một tiếng đồng hồ lái xe.
Vào tháng 10 năm 2016, ni sư Giới Hương cùng với các chư ni về thăm chốn tổ như Chùa Dược Sư, Linh Quang, Hương Sen… đã đảnh lễ bảo tháp nhục thân của sư bà và đã thỉnh xá lợi của sư bà về Cali, Hoa Kỳ. Các xá lợi như:
Xá lợi tóc có (óng ánh năm màu ngũ sắc dưới ánh nắng cho những ai có duyên nhìn thấy)
Chiếc chén dùng cơm hàng ngày của sư bà để đem qua Hoa Kỳ thờ phượng, để nơi đây kết duyên với hạnh đức và từ lực của sư bà.
Nay chùa Hương Sen, muốn xây Tháp Tứ Ân để tôn thờ xá lợi của sư bà, cùng với tro cốt của các bậc xuất gia và tại gia quá vãng. Đây là ruộng phước điền cao qúi để cho các qúi Phật tử gieo duyên với Sư bà – vốn là một bậc trưởng lão ni đã cống hiến cả một đời nghiêm trì giới hạnh và chuyên tu miên mật. Cúng dường công đức vào việc xây THÁP TỨ ÂN, chúng ta ít nhiều sẽ:
Từ bỏ không gieo nhân đau khổ trong sáu cõi nữa.
Hướng lên, được kết nhân duyên giác tỉnh làm thánh, làm hiền, theo đạo hạnh của sư bà.
Được tiếp xúc trực tiếp với năng lực từ bi và trí tuệ phi thường phát ra từ xá lợi óng ánh của Sư bà.
Được đến đảnh lễ xá lợi của sư bà để tăng thêm lòng tin rằng: hễ chúng ta sống một đời niệm Phật, giới hạnh thanh tịnh, tu tập tâm linh thì khi chết sẽ lưu lại xá lợi óng ánh cho thế gian. Đây là kết tinh bản chất của vị cao ni đắc đạo. Sự thuần khiết của bản thể các cao tăng hay cao ni được xuất hiện dưới hình thức xá lợi óng ánh.
Mọi sự phát tâm đóng góp cúng dường xây THÁP THỜ XÁ LỢI xin quí vị ghi: Hương Sen Buddhist Temple, memo xin đề : Tháp Tứ Ân và gởi về địa chỉ:
Huong Sen Buddhist Temple, số: 19865 Seaton Ave.
Perris, CA 92570. USA
Tel: 951-657-7272 , Cell: 951-616-8620
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. ,
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Facebook:https://www.facebook.com/chuahuongsen
Web: www.huongsentemple.com
Mọi thông tin chi tiết, xin liên lạc trực tiếp:
Ni sư Trụ Trì Thích Nữ Giới Hương: Điện thoại di động: 951-616-8620 Mọi sự cúng dường, sẽ được chùa HS sẽ viết phiếu biên nhận công đức (receipt) theo địa chỉ và phương danh của quý vị để qúi thí chủ có thể khai miễn thuế với số ID của Chùa là : 37-1605292. Đây là một trong những phước thiện để chúng ta gieo phước cúng dường đối với một bậc chân tu liễu đạo thuộc hàng Tăng Bảo (tức là một trong ba bậc cao quý của Tam Bảo) trên thế gian.
Nguyện cầu Phật Tổ chứng minh và gia hộ cho tất cả quý Phật tử hảo tâm sáu thời thường an lành trong ánh hào quang của Chư Phật.
Nam Mô Trang Nghiêm Bảo Tháp tác đại chứng minh.
Chùa Hương Sen, ngày 01/01/2018
Trụ trì : Ni Sư Tiến Sĩ Thích Nữ Giới Hương
(Nhạc)
Kính thưa qúi vị, sau đây kính mời qúi vị cùng chia xẻ
NHỮNG ĐỨC HẠNH Cao Qúi CỦA SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM
Ngày ngày sư bà lên lớp giảng dạy cho chư ni, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều với lời lẽ uyên bác, chỉ bảo mặt phải, răn dạy mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời, mong sao cho các con thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy ai nghe cũng thấy đúng như tâm trạng của riêng mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất thực tế.
Sư bà khiêm cung, giản dị, từ hòa, nhưng nghiêm khắc khiến đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những tính xấu ác, bao dung hỉ xả những lồi lầm, chỉ cốtmong cho đại chúng trở thành những bậc pháp khí trong Phật pháp.
Sư bà luôn luôn một lòng lo cho đại chúng từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi lại đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm, sư bà không giờ phút nào ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác, giác tha.
Tấm gương vô ngã vị tha, không lời lẽ nào có thể kể hết được những hạnh đức, đã gieo vào tâm thức ni chúng những ấn tượng khó phai.
Học chúng đổ về học pháp rất nhiều, đến nỗi không đủ chỗ, nên Sư bà phải sửa sang lại phòng tắm để làm chỗ nghỉ cho mình, và nhường căn phòng của mình làm chỗ ở cho đại chúng.
Những ngày vào đông giá rét ở xứ lạnh cao nguyên, người người ai ai cũng co ro lo tìm kiếm sự an ổn cho riêng mình. Nhưng đối với Sư bà, thì những áo mền ấm áp nhường lại tất cả cho đàn con, sư bà tự ráp những tấm vải thô vừa nặng nề vừa chẳng đủ ấm để làm cho phần của mình.
Sư Bà nhận thấy đàn hậu lai trí kém tuệ ít, cho nên Sư bà toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… bằng lời văn giản dị, xác thực để giúp cho học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Vì là một bậc chân tu liễu đạo, thường ẩn danh khiêm ái cho nên mỗi một cuốn sách đã viết ra, sư bà không để tên mình bao giờ, mà chỉ lấy tên của các đệ tử đặt vào sách.
Sư bà thường răn nhắc Ni chúng phải tinh tấn tu hành để đền ơn thí chủ. Phải sống đời sống giản dị, tiết kiệm từng hạt cơm hạt gạo, từng tấm vải thô sơ, không được phung phí những vật dụng của Tam-bảo, phải biết yêu tiếc như giữ tròng trong con mắt.
Sư bà kiệm đức kiệm phước trong từng hành động, 70 tuổi vẫn tự giặt lấy áo khăn, tự giăng mùng nghỉ, không phiền nhọc đến một người hầu hạ. Mãi cho đến năm thọ 80-94 tuổi, vì Phật sự đa đoan, vì tuổi già mỏi nhọc, sư bà mới để cho hàng đệ tử thị giả trợ giúp.
Sư bà ít khi bộc lộ ra hiện tướng mỏi nhọc buồn phiền, gặp ai cũng nở nụ cười từ ái bao dung. Bất cứ ai khi đến gần bên Sư bà đều cảm nhận ngay được sự mát mẻ từ bi, làm cho tất cả bao phiền não đều tiêu tan hết (đó là một trong những lý do mà ni chúng nương về tu học bên sư bà rất đông, cho dù sư bà ẩn tu nơi xa xôi rừng thẳm).
Vì sư bà đã thấu đạt được chân lý là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nên con sâu con kiến, hàm linh bảo thức, các loài chúng sanh, có duyên với sư bà đều được thừa hưởng ân đức từ sư bà quy y, bố thí, ban bố, được thấm nhuần pháp vị.
Sư bà dạy rằng một khi đã làm con sâu, con kiến, thì rất khó đi lên, cho nên phải biết đến sự nguy hiểm mà chúng ta phải cố thoát ra. Bây giờ trong nghiệp dĩ làm người này, chúng ta có nhiều khả năng học hiểu về Phật pháp để cầu mong giải thoát, có nhiều cơ hội để vượt khỏi cửa ải, nếu mất thân người mà bị đọa trong 12 loài thì rất khó tu tập để đi lên.
Vì vậy, lòng từ bi của sư bà không chỉ nhân loại được thừa hưởng mà còn thấm nhuần đến từng cỏ cây, loài vật. Đối với chúng sanh, đói thì sư bà cho ăn, khát thì sư bà cho uống, rét thì cho áo mặc, chuyên cần niệm Phật để chúng kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau. Sư bà dạy rằng : “Đó chính là những huynh đệ của chúng ta từ bao kiếp trước, nhưng chỉ vì một chút lỗi lầm mà bị đoạ làm thân chó ngựa, cho nên các con phải tận tình nhủ lòng thương xót”.
Đức hạnh của Sư bà như núi cao bất động trước cảnh đời dâu bể, vẫn cúi xuống tận lực đùm bọc che chở, nuôi dưỡng nhũng hạt giống thánh chủng cho hàng đệ tử ni.
Định lực an định của Sư bà như núi cao bất động trước phong ba của tám gió. Trí tuệ như trăng sáng chiếu soi, phá tan bao hắc ám của cuộc đời sanh tử. Giúp cho chúng ni tăng thêm sức mạnh vững vàng trên con đường tu tập thánh thiện.
Một lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng, khi gặp bất cứ hình tượng Phật nào, kinh sách Phật nào và chư tôn đức tăng nào, sư bà đều thành kính đảnh lễ.
Luôn luôn tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp, cả cuộc đời sư bà là nêu cao tấm gương vì pháp quên thân.
Đối với hàng Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, đãnh lễ và dạy hàng đệ tử suốt đời phải thực hành Bát Kính Pháp.
Sư bà truyền dạy cho chúng ni phải noi theo nếp sống lục hoà, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Sư bà vì đàn hậu lai đã mở ra một đường lối tu hành rõ ràng giản dị qua các bài giảng, các bài Di Chúc, qua cuốn Bốn Mùa Hoa giác, Lăng Nghiêm và các kinh sách toát yếu khác. Đây vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân sư bà và cũng vừa là kim chỉ nam chỉ lối đưa đường cho đàn đệ tử ni hiện tại và hậu lai trên bước đường tu học giải thoát.
ĐỊA CHỈ XÂY THÁP TỨ ÂN THỜ XÁ LỢI SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM tại Hoa Kỳ
Tại Huong Sen Buddhist Temple
Tọa lạc số : 19865 Seaton Ave.
Perris, CA 92570. USA Tel: 951-657-7272, Cell: 951-616-8620
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. ,
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Facebook:https://www.facebook.com/chuahuongsen Web: www.huongsentemple.com
Xá lợi của Chư thánh tăng từ đâu mà có? Trong kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Xá lợi là sự kết tinh công phu tu tập từ Giới-Định-Tuệ, rất khó được (không phải ai cũng có), là phước điền tối thượng”.
Với ý nghĩa này,chúng ta biết rằng ai có nhân duyên lễ bái, đảnh lễ và chiêm ngưỡng xá lợi là một phước đức lớn lao. Xá lợi sẽ đem đến cho người chiêm bái một cơ hội được gần Phật, Bồ-tát, chư hiền thánh tăng về phương diện tâm linh. Các Ngài cũng như sư bà Hải Triều Âm có chủ ý lưu lại xá lợi để chúng ta có cơ duyên tạo phước điền, gieo nhân hạnh an lạc giải thoát cho chính mỗi chúng ta.
Kính thưa qúi vị,
Mọi thông tin chi tiết, xin liên lạc trực tiếp: Ni sư Trụ Trì Thích Nữ Giới Hương: Điện thoại di động: 951- 616-8620
Trân trọng cảm tạ và kính chào.
Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ tát ma ha tát tác đại chứng minh.
Thưa qúi vị thính giả, đến đây, chương trình phát thanh do Nguyên Hà phụ trách xin đươc tạm ngưng nơi đây. Cám ơn quí vị đã theo dõi và xin được gặp lại trong kỳ phát thanh sắp tới.
Nguyên Hà Trân trọng kính chào.
Lâm Đồng: Sư Bà Hải Triều Âm Tân Viên Tịch
Đại lão Ni trưởng Thích nữ Hải Triều Âm – Sư bà Hải Triều Âm, sau một thời gian bệnh duyên chuyển hóa, đã an nhiên thu thần thị tịch hồi 23 giờ 56 phút ngày 24 tháng 6 năm Quý Tị, nhằm ngày 31 tháng 7 năm 2013 tại chùa Dược Sư, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, trụ thế 94 năm, 65 năm tuổi đạo. Đại lễ nhập kim quan và phát tang sẽ được tổ chức vào hồi 15 giờ ngày 25 tháng 6 năm Quý Tị, nhằm ngày 01 tháng 8 năm 2013 tại chùa Dược Sư.
Cố Đại lão Ni trưởng sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), thân phụ – cụ ông Etienne Catallan là công chức người Pháp, thân mẫu – cụ bà Nguyễn Thị Đắc là y sĩ người Việt. Sư bà có thế danh là Nguyễn Thị Ni, tên tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
Sau tốt nghiệp Diplôme tại trường Pháp – Việt, Hà Nội, Sư bà làm nghề dạy học. Ngoài giờ dạy học, Sư bà thường vào các bệnh viện, trại mồ côi, dưỡng lão để giúp đỡ, an ủi động viên những mảnh đời bất hạnh và dành thời gian tu học Phật pháp từ Sư cụ Thích Tuệ Nhuận. Từ khi đó, Sư bà đã biên tập và bỏ tiền ra in những cuốn kinh sách nhỏ phát cho những Phật tử và tới chùa tụng kinh hàng ngày.
Sư bà Quy y với Hòa thượng Pháp chủ đương thời là ngài Thích Mật Ứng, được Ngài đặt cho pháp danh là Hải Triều Âm.
Sư bà đã lập các gia đình Phật tử, mở hội dưỡng lão, thanh thiếu niên, nhi đồng Phật giáo ở Hà Nội, Hải Phòng. Ngoài ra Sư bà còn viết bài cho báo Bồ Đề của Sư cụ Thích Tuệ Nhuận, dưới bút hiệu là Thích nữ Cát Tường Lan.
Năm 29 tuổi, Sư bà xuất gia với Hòa thượng Thích Đức Nhuận – sau này là Đức Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN, ở chùa Quảng Bá, y chỉ và thọ giới với Ni trưởng Tịnh Uyển ở chùa Thanh Xuân, làng Phùng Khoang – Hà Nội.
Năm 1954, Sư bà vâng lời Hoà thượng nghiệp sư di cư vào Nam. Nhập chúng ở chùa Dược Sư – Gia Định – Sàigòn. Vừa lo tu học, vừa chăm sóc mẹ già bị bệnh bán thân, vừa giảng dạy cho Phật tử. Sư bà tinh trì giới luật, nghe kinh Kim Cương lĩnh ngộ được tông chỉ niệm Phật, tu quán Tứ Niệm Xứ để khai tuệ giác, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Sau khi mẹ mất, vì muốn báo hiếu công ơn mẹ, thấy rằng không gì bằng công đức tu hành, Sư bà nhập thất 5 năm ở chùa Vạn Đức – Thủ Đức, gần Sài Gòn, với sự trợ giúp của Hòa thượng Thích Trí Tịnh – Đương kim Chủ tịch HĐTSTW GHPGVN, chuyên tâm niệm Phật. Sau đó Sư bà về Bà Rịa, nhập thất 3 năm, chuyên tâm nghiên cứu nội điển Đại thừa, với sự trợ giúp của Hòa thượng Thích Thanh Từ.
Trong thời gian hành đạo tại tại chùa Dược Sư ở Sài gòn từ năm 1954 đến 1972, Sư bà đã kiến tạo Tịnh Thất Liên Hoa ở Sài Gòn và chùa Viên Thông ở Đồng Nai.
Năm 1972, Sư bà với đôi bàn tay trắng, lên Phú An – Đức Trọng – Lâm Đồng, được sự giúp đỡ của các Phật tử thuần thành như ông Hai Diễn (đã mất), cô Ba Chỉ (hiện nay, 2012 đã 90 tuổi, rất minh mẫn, đang tịnh tu tại tịnh xá số 200, thôn Phú An, xã Phú Hội – Đức Trọng), v,v, Sư Bà đã tu hành 7 năm tại ngôi tịnh thất nhỏ trong khu vườn sắn, nay được khôi phục lại là tịnh thất Linh Quang.
Trên cao nguyên, Sư bà gặp nhiều thiện duyên độ chúng, ban đầu Ni chúng chỉ có vài chục vị. Đến nay (2012), tổng số sư Ni được Sư bà độ có tới hơn 1.000 vị.
Trong đó, số hiện còn đang tu theo chúng tại 8 chùa và tịnh thất của Sư bà là hơn một nửa (Tịnh Thất Liên Hoa ở Sài Gòn, chùa Viên Thông ở Đồng Nai; chùa Dược Sư, chùa Hương Sen, chùa Bát Nhã, chùa Lăng Nghiêm, tịnh thất Ni Liên, tịnh thất Linh Quang ở Đức Trọng – Lâm Đồng). Mọi người đủ các căn cơ, già trẻ, Sư bà đều đưa tay tế độ, mong họ được kết duyên với Phật pháp. Còn Phật tử được Sư bà quy y thì không biết bao nhiêu mà kể.
Đã mấy chục năm nay, Sư bà ngày ngày lên lớp giảng dạy, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, lời lẽ uyên bác, chỉ mặt phải, răn mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời, mong sao cho các đệ tử thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy của Sư bà ai nghe cũng thấy đúng với tâm trạng của mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất thực tế.
Đối với đại chúng, Sư bà khiêm cung, giản dị, từ hòa. Nhưng nghiêm khắc đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những xấu ác, bao dung những lỗi lầm, chỉ cốt cho đại chúng thành những bậc pháp khí trong Phật pháp.
Sư bà một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm không giờ phút nào Sư bà ngơi nghỉ, luôn trong bổn phận tự giác giác tha.
Thấy đàn hậu lai trí kém tuệ ít, Sư bà thâu đêm đọc sách, dịch kinh viết sách, toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni, v.v, với lời văn giản dị, xác thực để học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật.
Sư bà đã dịch thuật, biên dịch, biên soạn, chú giải, toát yếu hơn 100 đầu sách và in ấn không biết bao nhiêu mà kể.
Mỗi một cuốn sách viết ra, Sư bà không để tên mình bao giờ, mà lấy tên của các đệ tử đặt vào sách. Ấn tống các kinh Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư … gửi khắp Bắc, Trung, Nam, để các Phật tử có kinh tiếng Việt tụng học, hành trì. Có thể nói hầu khắp các chùa ở Việt Nam đều có lưu thông kinh sách từ Sư bà.
Mang bệnh giật cơ trên đầu mấy chục năm nay, nhưng chưa từng vì đó mà Sư bà nghỉ ngơi. Có thời gian, để làm xong tác phẩm “Hai Cánh Nhà Ni” cho các Tỳ-kheo-ni mới thọ giới nắm vững giới điều, Sư bà đã thức suốt cả một tháng không ngủ.
Một lòng tôn kính Phật Pháp Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Sư bà đều thành kính đỉnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp, cả đời Sư bà nêu cao tấm gương vì pháp quên thân. Đối với Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, dạy hàng đệ tử suốt đời phải thực hành Bát Kỉnh Pháp, thực hành nếp sống lục hoà, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Sư bà kiệm đức, kiệm phúc trong từng hành động, 80 tuổi vẫn tự giặt áo, giăng mùng, xếp nép, không phiền nhọc một người hầu hạ. Phòng ở của Sư bà vô cùng giản dị, giường nằm chỉ là mấy tấm gỗ tạp đóng quây tạm dùng. Qua 80 tuổi, Phật sự đa đoan, tuổi già đau mỏi, Sư bà mới cho cắt đặt thị giả, cho hàng đệ tử trợ giúp.
Trước thời viên tịch, dù đã 94 tuổi, thân suy yếu, bệnh tật, nhưng chưa bao giờ Sư bà hiện tướng mỏi nhọc buồn phiền. Gặp ai, Sư bà cũng nở nụ cười từ ái. Gặp Sư bà, ai nấy đều cảm nhận được sự mát mẻ từ bi, tất cả bao phiền não đều tiêu tan.
Với chúng sinh, các loài vật nuôi, đói cho ăn, khát cho uống, rét cho áo mặc, niệm Phật để nó kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau. Sư bà răn dạy “đó chính là những huynh đệ chúng ta từ kiếp trước, chỉ vì một chút lỗi lầm phải đọa làm thân chó, nên các con phải tận tình thương xót”.
Sư bà đã làm nhiều chùa, xây dựng cho hậu lai nơi ăn chốn ở nghiêm tịnh. Nhưng luôn nhắc nhở, thế sự vô thường, không bền chắc, chỉ có ngôi nhà Phật pháp mới là nơi nương tựa vững vàng nhất.
Tất cả mọi tịnh tài vật phẩm thập phương cúng dàng đều thanh tịnh đúng Pháp. Sư bà chưa bao giờ cất lời khuyến giáo ai cả. Mọi tịnh tài tịnh vật thập phương dâng cúng lên Sư bà, Ngài đều phân chia đều và hết cho tất cả các chúng, không giữ lại cho riêng mình một chút gì.
Cố Đại lão Ni trưởng vì đàn hậu lai mà đã mở ra một đường lối tu hành rõ ràng. Năm 1988, Ngài đã viết một bài Di Chúc, vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân Sư bà và cũng là kim chỉ nam, chỉ lối đưa đường cho đàn hậu lai trên bước đường tu học. Bản di chúc đó, chính là một tác phẩm Phật pháp, được gọi là “Bốn mùa hoa giác”.
Đón Tết Vua Hùng Ở Hải Triều Âm Tự
Giữa đồng không mông quạnh, Hải Triều Âm tự như ốc đảo xanh trên sa mạc với đủ loại cây cảnh chăm tươi tốt có ở mọi chốn trong không gian rộng vừa phải, cả một giàn phong lan lủng lẳng đến không xuể trước cốc bên hữu.
>>Những ngôi chùa Việt độc đáo
Mất chừng 50 cây số đi về bằng xe đạp, rời quốc lộ, qua cầu treo, vào ngõ sâu hun hút băng ngang các cánh đồng khô không khốc dưới nắng cháy da hay ao tôm công nghiệp trơ trọi đồng quang vắng, ong ong nắng lại liên tưởng hình ảnh Hóa Thành khi dừng trước cổng Hải Triều Âm tự cách cửa biển Cống Cái Cùng mấy cây số, lọt trong vùng có cảnh báo “khu vực biên giới biển”- thuộc xã Vĩnh Thịnh – Hòa Bình – Bạc Liêu.
Chính điện khiêm cung, nhỏ nhắn lại càng tôn cao tượng Phật ở trung tâm; phía sau, hai tủ kinh sách khá phong phú, có nơi phụng thờ Tổ Sư Minh Đăng Quang – theo một nghi thức của hệ phái khất sĩ. Trống, gồm bệ và thân, tinh xảo, đẹp. Chính điện nhỏ nhắn mà chuông lớn – trống được tạo tác công phu và kinh sách nhiều, chim kêu ríu rít trong cảnh trang nghiêm thanh tịnh. Từ chính điện nhìn ra lộ làng hướng về cửa biển, một thảm xanh lung linh đẹp trong nắng, thánh tượng Quan Âm một màu trắng thanh khiết vươn cao trên cánh những lá sen trắng tự nhiên, và cổng Chùa kín đáo lại đẹp lạ, các mảnh gỗ sơn vàng gợi cái gì đấy xưa cũ xa xôi…
Tôi không đủ duyên đảnh lễ quý ni trụ trì, sư cô Thích nữ Liên Hòa, nhưng lại có may mắn nghe vị tỳ kheo ni trẻ vốn có 10 năm tu học bên cạnh Sư bà Hải Triều Âm trên cao nguyên, ở ngã ba Phú An. Miên man chìm trong những kỷ niệm của sư cô về bậc ni nổi tiếng, nhân duyên của sư cô khi về phục vụ bên cạnh quý ni trụ trì tận vùng biển xa xôi này.
Vùng đất Vĩnh Thịnh của huyện Hòa Bình đối diện vùng Cái Cùng thuộc Long Điền Đông huyện Đông Hải cùng tỉnh Bạc Liêu bên kia, vùng đất chịu ảnh hưởng nặng nề của bão số 5 chưa xa lắm, và khi ấy trên nền Hải Triều Âm tự chỉ là am cốc đơn sơ, đã tham gia vào hoạt động cứu trợ đồng bào.
Ngày nay, Hải Triều Âm tự – theo lời Đại đức Trưởng Ban Trị sự Phật giáo huyện Hòa Bình Thích Huệ Thường trao đổi cùng tôi: “Đây là địa chỉ hàng đầu công tác từ thiện nhân đạo của Phật giáo huyện nhà”, sư cô trụ trì Liên Hòa là Trưởng ban từ thiện Phật giáo huyện và tham gia thường trực ban trị sự Phật giáo tỉnh.
Là Phật tử, tôi có hạnh phúc khi được nghỉ trưa ở cốc cạnh giàn phong lan, trong một giao cảm tâm linh đặc biệt, tránh cái nắng cháy và có khoảng lặng nghỉ ngơi. Cốc đơn sơ, chỉ có bức hình Phật Thích Ca cỡ nhỏ trên cao và hai chiếc đơn, trên cùng gác gỗ làm hạ nhiệt – la phông.
Trước khi ra về, tôi nói cùng quý ni làm công việc tri khách về ngày quốc giỗ, về Vesak cận kề….Quý ni có nói: chú thấy người ta đặt tên chùa Hải Triều Âm có ngẫu nhiên không? Tôi đáp: không có gì ngẫu nhiên. Sư trưởng Hải Triều Âm đức cao vọng trọng sáng danh ni giới, cả đời tu học cống hiến, bậc ni có sự học uyên bác, chọn pháp danh người cho ngôi già lam là vinh dự cho cả vùng quê xa xôi này.
Chuyện hôm qua, ở ốc đảo xanh cận biển Bạc Liêu.
Nguyễn Thành Công
Công Đức Cúng Dường Xá Lợi
Cùng đoàn kết, đồng lòng, chung tay, góp sức, tương thân, tương ái phòng chống, đẩy lùi đại dịch Corona Covid – 19
CHÚC MỪNG NĂM MỚI! CHÚC QUÝ KHÁCH MỘT MÙA GIÁNG SINH AN LÀNH MỘT NĂM MỚI HẠNH PHÚC!
Thuở ấy, có một tín nữ ngoan đạo. Nàng sống thật hạnh phúc dưới mái ấm gia đình, tất cả tình thương nàng đều dành cho cô con gái xinh đẹp và ngoan ngoãn của nàng tên là Sê Sa Va Ti. Trong các dịp lễ lớn nàng thường cùng cô con gái đến dâng hương lễ Phật. Một hôm đến chùa thấy thợ bạc nấu vàng cho chảy ra, rồi đúc thành từng viên gạch một, cô con gái lấy làm ngạc nhiên hỏi mẹ:
– Thưa mẹ, thợ bạc đúc vàng thành viên gạch để làm gì?
Người mẹ đáp:
– Người ta đúc vàng thành gạch, xây cất bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Phật.
Sê Sa Va Ti nghe mẹ bảo như thế rất hoan hỷ, nàng phát tâm trong sạch với Đức Phật. Nàng thưa với mẹ:
– Thưa mẹ, con muốn hùn phước bằng sợi dây chuyền nơi cổ con để góp phần vào việc xây dựng bảo tháp, mẹ nghĩ sao?
Nghe con phát tâm bồ đề như thế, người mẹ đáp:
– Lành thay, lành thay, thật quý báu, mẹ vô cùng hoan hỷ trước sự phát tâm của con gái yêu quý của mẹ.
Nàng liền đem sợi dây chuyền đến hùn phước.
Kiếp đó, khi nàng lâm chung, nhờ phước báo cúng dường sợi dây chuyền để xây bảo tháp, nàng được thọ sanh vào cõi trời, hưởng lạc thú nơi tiên cảnh.
Đến thời giáo pháp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nàng giáng trần thọ sanh trong xứ Na Lan Đà tên là Sê Sa Vát Ti. Tuy mới 15 tuổi nhưng dung nhan thật diễm lệ, tánh tình lại ngoan hiền, nàng được mọi người yêu mến.
Cũng tại xứ Na Lan Đà, có một vị Trưởng giả đang giàu có, bỗng trở nên nghèo khổ, vì bao nhiêu ngọc ngà, châu báu thọ hưởng cha mẹ để lại đều biến thành đá.
Một hôm, ông trưởng giả nghĩ ra phương cách, làm cho những viên đá vô dụng kia sẽ trở thành châu báu như cũ. Ông bèn đem những viên đá ra chợ bán với niềm tin nếu gặp người có phước đức, tất cả những viên đá này sẽ trở thành châu ngọc.
Ngày kia nàng Sê Sa Vát Ti vâng lời mẹ, đi chợ mua dầu. Khi bước vào chợ, cô trông thấy một gian hàng trưng bày toàn vàng bạc châu báu chiếu sáng rực rỡ. Sê Sa Vát Ti bước đến gần để xem cho kỹ và ngạc nhiên cô hỏi người chủ hàng:
– Thưa ông chủ, vì lẽ gì mà ông đem vàng bạc, ngọc ngà chất đống trên sập này như vậy. Đáng lẽ, tất cả những của này phải gìn giữ cẩn thận trong tủ, trong kho mới phải.
Ông trưởng giả nghe vậy, lấy làm mừng rỡ, biết rằng đã gặp được người hữu phước. Ông không vội trả lời mà hỏi lại Sê Sa Vát Ti:
– Cô em ở đâu? Con cháu của ai?
Sê Sa Vát Ti lễ phép đáp:
– Thưa ông, cháu là con của một người nông dân ở xứ này.
Ông trưởng giả vội vàng gom góp tất cả vàng bạc ngọc ngà cho vào bao, rồi mời Sê Sa Vát Ti cùng về nhà ông. Đến nơi ông mới giải thích với nàng:
– Trước đây, tôi là một vị trưởng giả giàu sang bậc nhất trong xứ này. Nhưng bỗng nhiên tôi trở thành nghèo khổ, vì tất cả châu báu của tôi đều biến thành đá cả. Vì thế, tôi mới đem một số đá này ra chợ với hy vọng tìm người hữu phước, tất cả của cải này kể như cho cô em hết, vì cô em là người đầy đủ phước đức, xứng đáng được hưởng tài sản này.
Nói xong, ông trưởng giả hướng dẫn nàng Sê Sa Vát Ti đến kho chứa vàng bạc châu báu cho nàng xem. Khi đến nơi, nàng chỉ nhìn qua, tất cả của cải đều hoàn lại thành châu ngọc lóng lánh muôn màu như cũ.
Sau đó, ông trưởng giả và Sê Sa Vát Ti trở về nhà luôn dịp để diện kiến song thân nàng, ông trưởng giả kể lại cho cha mẹ Sê Sa Vát Ti nghe. Sau cùng ông ngỏ lời xin được chọn nàng làm con dâu. Phụ thân của Sê Sa Vát Ti hết sức hân hoan trước lời cầu hôn của ông trưởng giả nên tán thành. Rồi những thiệp hồng mang tin vui đến thân bằng quyến thuộc. Nhà cửa được trang trí treo đèn kết hoa rực rỡ. Ngày vu quy, Sê Sa Vát Ti lên xe hoa trong tiếng pháo đì đùng.
Nàng sống hạnh phúc bên chồng và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng.
Cũng trong thời gian ấy, dân chúng trong khu vực sông Hằng sống yên vui dưới ánh đạo vàng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi đây, đạo nghĩa trọng hơn bạc vàng. Hình bóng của bậc tu hành được tôn kính hơn quyền chức. Trong hàng môn đồ của Đức Phật, có Tôn giả Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử đức hạnh và trí tuệ tuyệt vời.
Một hôm, sau buổi thiền định, Ngài nhận thấy tuổi thọ của Ngài sắp hết. Ngài vào đảnh lễ Đức thế Tôn, từ giã và xin phép về xứ Na Lan Đà để nhập niết bàn nơi đây, đồng thời cũng để tế độ song thân của Ngài hãy còn lầm lạc trong vòng tà kiến ngoại đạo.
Về đến Na Lan Đà, đại đức Xá Lợi Phất sau khi thức tỉnh được song thân trở về với chánh pháp, nương tựa dưới bóng mát Phật, Pháp, Tăng, Tôn giả liền nhập niết bàn ngay trong phòng mà Ngài đã chào đời.
Sau một tuần lễ để cúng dường và chiêm ngưỡng, chư Phật tử quyết định lễ hỏa táng di thể của Ngài Xá Lợi Phất thật long trọng và trang nghiêm.
Khi ấy nàng Sê Sa Vát Ti đã có mang đứa con đầu lòng của nàng hơn chín tháng. Lúc hay tin lễ hỏa táng nhục thân của vị Tôn giả mà nàng hằng kính mến sắp cử hành, Sê Sa Vát Ti liền xin phép cha mẹ chồng đến tế lễ trước kim quan.
Cha mẹ chồng tìm đủ lý lẽ để cản ngăn vì biết rằng nàng cũng sắp sinh nở. Nhưng Sê Sa Vát Ti có ý chí và đức tin vững mạnh, nàng cương quyết vì tín ngưỡng tham gia cuộc lễ, cuối cùng ông bà trưởng giả phải vị nể tán thành.
Nàng cùng những gia nhân thân tín, mang lễ vật đến hoa đài, nơi đang quàng kim quan của đại đức Xá Lợi Phất.
Khung cảnh hoa đài lúc ấy rất náo nhiệt, dân chúng chen chúc lễ bái lần cuối cùng trước khi hỏa táng.
Nàng Sê Sa Vát Ti cùng đoàn tùy tùng mang lễ vật đến, nàng được mọi người nhường lối đi, vì trong xứ ai cũng kính mến nàng giàu lòng nhân ái và đức hạnh. Nàng bày lễ vật trước kim quan rồi thành kính dâng cúng.
Nhờ phước báo này, sau khi lìa trần, Sê Sa Vát Ti được thọ sanh vào cung trời Đao Lợi. Nàng hưởng an vui hạnh phúc trong một cung điện bằng vàng cẩn ngọc vô cùng tráng lệ có hàng chư thiên nữ hộ giá.
Ngày nọ, tiên nữ Sê Sa Vát Ti chợt nhớ đến tiền kiếp của mình, nàng hiện xuống Kỳ Viên tịnh xá, yết kiến Đức Thế Tôn.
Lúc ấy Đức Thế Tôn đang tiếp kiến đại đức Va Bha Sa Gi The Ra, bỗng thấy hào quang muôn sắc, chiếu sáng thật xinh đẹp, rồi tiên nữ Sê Sa Vát Ti xuất hiện đảnh lễ Thế Tôn, bà thuật lại đầy đủ chi tiết về tiền thân của mình.
Nhân cơ hội ấy, Đức Thế Tôn thuyết một thời pháp tán dương công đức sự cúng dường Xá Lợi Phất.
GIỚI ĐỨC
“Bố thí là kho châu báu thường theo người. Bố thí là nhóm điều vui, trừ đau khổ”.
(Tangthuphathoc)
‘ PHÁP BẢO “THẦN CHÚ GIẢI THOÁT” THÔNG QUA SỰ NHÌN THẤY, SỰ ĐI BÊN DƯỚI VÀ SỰ TRÌ TỤNG ‘
Bạn đang đọc nội dung bài viết Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân Thờ Xá Lợi Của Sư Bà Hải Triều Âm trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!