Cập nhật nội dung chi tiết về Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông Di Tích Lịch Sử Cách Mạng Cấp Quốc Gia Tỉnh Sóc Trăng mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông hay còn được gọi là Miếu Bà Mỹ Đông, toạ lạc tại ấp Mỹ Đông 1, xã Mỹ Qưới, huyện Ngã Năm, là một trong tám di tích cấp quốc gia của tỉnh, cách thành Phố Sóc Trăng 60 km về hướng Đông – Bắc, cách thị trấn Phú Lộc, huyện Thạnh Trị khoảng 20km.
Cổng chính vào Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông
Ngôi miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông là nơi lưu dấu sự ra đời Chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu tiên tỉnh Sóc Trăng – Chi bộ Mỹ Quới vào tháng 6/1930. Nơi đây được chọn làm điểm để chi bộ sinh hoạt, do có địa thế cách trở, đảm bảo được bí mật. Từ ngày thành lập chi bộ, đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Chi bộ Đảng của Mỹ Qưới luôn đi đầu trong phong trào cách mạng.
Khi đất nước hòa bình, bà con ở đây đã cùng nhau dựng lại ngôi miếu bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng. Sau đó, tỉnh được Trung ương đầu tư kinh phí khôi phục lại ngôi miếu và xây thêm một số hạng mục khác. Hiện nay, nhà trưng bày hiện vật, cổng chính, hàng rào đã xây dựng hoàn thiện, đưa vào phục vụ tốt nhu cầu sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng của người dân, cũng như tìm về với lịch sử của tỉnh Sóc Trăng của du khách gần xa. Cách ngôi miếu khoảng 200m về hướng Bắc là khu mộ của đồng chí Trần Văn Bảy-người đảng viên kiên cường, cũng là người lãnh đạo của Chi bộ Mỹ Quới (di hài được cải táng từ Côn Đảo về năm 1998) và song thân của Ông.
Khuôn viên Miếu Bà Chúa Xứ
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông mang ý nghĩa lịch sử cách mạng vô cùng to lớn. Những Đảng viên của chi bộ hoạt động nơi đây đã góp phần đưa ánh sáng cách mạng và đường lối chính sách của Đảng đến với mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Lãnh đạo tỉnh thường xuyên chọn nơi đây làm địa điểm tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng hàng năm, nhằm ôn lại truyền thống cách mạng và động viên giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau. Lễ vía Bà được tổ chức long trọng hằng năm vào ngày 16/2âl, thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách các nơi về tham dự. Năm 2003, Bộ Văn hoá Thông tin, nay là Bộ VHTTDL ban hành Quyết định 62 công nhận Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông là di tích lịch sử cấp quốc gia ./.
KP
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông
MIẾU BÀ CHÚA XỨ MỸ ĐÔNG
1. Tên di tích: Miếu bà chúa xứ Mỹ Đông 2. Loại công trình: Đền miếu 3. Loại di tích: di tích Lịch sử cách mạng 4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 73/QĐ.BVHTT, ngày 23/8/2004 của Bộ VHTT 5. Địa chỉ di tích: Thị Trấn Ngã Năm, huyện Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng 6. Tóm lược thông tin về di tích Miếu Bà Chúa xứ Mỹ Đông, gọi theo dân gian là miếu Bà Mỹ Đông. Miếu nằm bên bờ Bắc rạch Mỹ Đông, thuộc ấp Mỹ Đông 1, xã Mỹ Quới, huyện Thạnh Trị (nay thuộc huyện Ngã Năm), cách thị trấn Phú Lộc 20km và cách thành Phố Sóc Trăng 60 km về hướng Đông – Bắc. Từ thị trấn Phú Lộc (huyện Thạnh Trị) quẹo phải dọc theo hương lộ 26 thêm một chặng đường 20km nữa là đến di tích. Đi đường thủy, sau khi đã đến thị trấn Phú Lộc, có thể đi bằng ghe xuồng theo hai đoạn kênh Toàn Rê và kênh 19/5 khoảng 20km là đến di tích rất tiện lợi. Giữa năm 1930, Chi bộ Đảng làng Mỹ Quới – Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới. Cử đồng chí Trần Văn Bảy làm bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm để chi bộ sinh hoạt.
Ngay từ khi nhận nhiệm vụ bí thư chi bộ, đồng chí Trần Văn Bảy đã đề ra kế hoạch hoạt động cho chi bộ, phân công cụ thể, luôn bám sát phong trào cơ sở để nắm chắc tình hình, thường xuyên xuống trực tiếp trao đổi, bồi dưỡng hướng dẫn thêm lý luận chính trị và thực tiễn vận động quần chúng. Thông qua các hình thức hoạt động công khai như: tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… Nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục với hình thức phân tán mỏng, đảm bảo được bí mật và an toàn cho từng học viên. Thông qua đó chi bộ chọn lọc và kết nạp ngày càng nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng. Từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển lan rộng ra các nơi trong quận Phước Long. Chặng đường từ năm 1930 đến 1936, Chi bộ Mỹ Quới xuất sắc vượt qua mọi khó khăn để xây dựng cơ sở; trong khoảng thời gian này, nhiều cơ quan đảng ở các nơi trong quận lần lượt ra đời. Năm 1936, quận uỷ Phước Long thành lập, các đồng chí Lê Hoàng Chu, Trần Văn Bảy, Trương Quý Thể, Quảng Trọng Hoàng được bầu vào quận uỷ. Sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra tại các nơi trong tỉnh ngày 23/11/1940, thực dân Pháp đã điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Chúng đốt sạch, phá sạch và gây biết bao tội ác với nhân dân – Ngôi miếu Bà Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá san bằng. Sau giải phóng 30/4/1975, bà con ở ấp Mỹ Đông đã dựng tạm lại ngôi miếu bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng. Năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng nơi đây một tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Ngày 27/11/2003 di tích Miếu Bà Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, huyện Ngã Năm tỉnh Sóc Trăng được công nhận là di tích lịch sử cách mạng theo Quyết định số 62/2003/QĐ-BVHTT. Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông là một điểm sáng luôn sống mãi trong lòng Đảng bộ Sóc Trăng và đã trở thành nơi tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng hằng năm – một lễ hội truyền thống động viên giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau./.
Địa Điểm Du Lịch Miếu Bà Chúa Sứ Núi Sam Di Tích (Lịch Sử, Kiến Trúc Và Tâm Linh) Quan Trọng Của Tỉnh Và Của Khu Vực.
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một di tích (lịch sử, kiến trúc và tâm linh) quan trọng của tỉnh và của khu vực. Nguồn gốc Cách đây khoảng 200 năm, tượng Bà (sau được gọi tôn là Bà Chúa Xứ) được dân địa phương phát hiện và khiêng xuống từ đỉnh núi Sam bằng 9 (có nguồn nói 12 hoặc hơn nữa) cô gái đồng trinh, theo như lời dạy của Bà qua miệng “cô đồng”, nên người dân đã lập miếu để tôn thờ . Có ý kiến cho rằng Thoại Ngọc Hầu hoặc vợ là bà Châu Thị Tế là người đã ban lệnh và hỗ trợ việc xây dựng miếu. Tuy khó xác minh, nhưng biết chắc là miếu ra đời sau khi vị quan này về đây trấn nhậm và kênh Vĩnh Tế đã hoàn tất (1824) mang lại lợi ích rõ rệt cho lưu dân và dân bản địa Kiến trúc Ban đầu miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam được cất đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng. Năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Năm 1962, ngôi miếu được tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu. Năm 1972, ngôi miếu được tái thiết lớn và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, và người thiết kế là hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng. Đến khi ấy, kiến trúc miếu có dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Bên trong miếu có võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban quý tế… Các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chính điện gần như được giữ nguyên như cũ. Ở thời điểm năm 2009, thì miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là “ngôi miếu lớn nhất Việt Nam” Tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam Khi xưa, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Chứng minh cho điều này là bệ đá Bà ngồi vẫn còn tồn tại (ảnh). Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn, không có ở địa phương. Theo nhà khảo cổ học người Pháp là Malleret đến nghiên cứu vào năm 1941, thì tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, chất lượng bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ 6, và rất có thể đây một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo [4]. Sau này, nhà văn Sơn Nam cũng đã chép rằng: Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy… Cũng theo lời truyền miệng dân gian, thì khi xưa có một nhóm người đến quấy nhiễu nơi đây. Gặp tượng Bà, họ muốn lấy đi nhưng xê dịch không được nên tức giận đập gãy cánh tay trái của pho tượng Chung quanh tượng Bà (đặt ở giữa chính điện), còn có bàn thờ Hội Đồng (phía trước), Tiền hiền và Hậu hiền (hai bên), bàn thờ Cô (bên phải, có thờ một tượng nữ thần nhỏ bằng gỗ), bàn thờ Cậu (bên trái, có thờ một Linga bằng đá rất to, cao khoảng 1,2m)… Theo sách Kỷ lục An Giang, 2009, thì tượng Bà là “pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam”, và “có áo phụng cúng nhiều nhất” Việc thờ cúng Lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, trong đó ngày vía chính là ngày 25. Các lễ chính gồm:
Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.
Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.
Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).
Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.
Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.
Theo tín ngưỡng của người dân, nơi đây vẫn còn có những tục như xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà… Ý nghĩa việc thờ cúng Nhà văn Sơn Nam viết: Bà Chúa Xứ, dạng đạo Lão dân gian, thu hút bá tánh nhiều nhất Nam Bộ. Cất bên chùa Tây An nhưng trong “Đại Nam nhất thống chí” không ghi tên, phải chăng đời Tự Đức và khi Pháp đến hồi cuối thế kỷ 19, miễu hãy còn khiêm tốn, khách hành hương chỉ là người phụ cận mà thôi. Miễu phát triển về sau, qua thời kháng Pháp rồi chống Mỹ… … Lăng Thoại Ngọc Hầu được trùng tu, rồi lập miếu thờ trang nghiêm như đình làng, nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu của con người khi quá đau khổ, bế tắc. Miễu bà Chúa Xứ được nâng cấp, thay cho miễu sơ sài…Đây là dạng tu tiên, một dạng như: Tây Vương Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, hoặc Liễu Hạnh công chúa…nên việc thờ phượng, cúng vái để “tự nhiên”, khách có thể ăn mặc lòe loẹt, trai gái đùa giỡn, cúng rượu thịt… Vị trí miễu Bà bên núi Sam hội đủ: Sông rộng, đồi núi trập trùng, vùng biên giới…Người hành hương cảm thấy được thỏa mãn về tâm thần, hòa mình vào”sơn hà xã tắc”, “khí thiêng sông núi”… Theo Nguyễn Đức Toàn, thì: Theo bước đường Nam tiến của dân tộc Việt, chúa Liễu đã từ Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng (Thanh Hóa) đi về phương Nam, tạm dừng ở điện Hòn Chén (Huế) và gặp bà Pô Nưgar tại Nha Trang, gặp bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu) ở Tây Ninh và bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc…Tất cả các bà đều là một Mẹ duy nhất trong tâm thức của tín ngưỡng và tập tục thờ mẫu của người Việt… Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch giải thích thêm: Do ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo cùng với các tín ngưỡng đồng bóng của dân gian mà các vị thần được thờ chủ yếu là nữ, như: Thánh mẫu Liễu Hạnh, Thượng Ngàn, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Cố Hỷ, Bà Thủy, Bà Hỏa…Và Bà Chúa Xứ trở thành một dạng như “Phật Bà Quan Âm” (đối với người Việt), “Bà Mã Hậu” hay “Thiên Hậu Nương Nương” (đối với người Hoa). Bà được tin tưởng đến độ có rất nhiều huyền thoại về “quyền lực linh thiêng” của Bà trong việc “ban phúc, giáng họa” cho con người. Như hai câu liễn đối treo ở miếu Bà như sau: Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thi Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường. Tạm dịch: Xin thì được, ban thì linh, báo trong giấc mông (Người) Xiêm sợ hãi, (Người) Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường. Từ năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thông tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia. Ngoài phần Lễ được tổ chức trang trọng theo lối cổ truyền, phần Hội cũng được tổ chức trọng thể hàng năm.
Thích và chia sẻ
Tham gia Page cộng đồng
Danh sách Tour Miếu Bà Chúa Sứ
1
Cách Sử Dụng Lộc Bà Chúa Xứ Châu Đốc
Dân làm ăn, nhất là các sếp đặc biệt dân vùng sông nước miền Nam không thể nào không nghe, không một lần nghe tiếng Bà Chúa Xứ và sự hiển linh của Bà đã ban cho dân chúng nơi vùng đất An Giang này, và cho bá gia bá tánh khắp nơi có cuộc sống no ấm, công việc hanh thông. Mới đây nhất sự linh hiển của Bà cho một người khách thân quen là có được em bé vào năm ngoái, với lời hứa nếu có sẽ xuống cúng tạ nhưng khi có lại quên lời hứa đó nên khi mang thai mà bị thai nghén như bị phá thai khi chợt nhớ lại lời hứa đó thì thai khỏe mạnh mà sinh ra dễ dàng.
Lại một gia đình kia ba bị ung thư khấn bà rồi cũng tìm được trúng thầy trúng thuốc …các cuộc xin làm ăn thì cầu được quá bình thường…
Quan trọng nhất là khi đi nên chọn ngày lành tháng tốt để cầu chi tất ứng. (Ai đj không biết ngày giờ nào tốt thì alo sẵn sàng trợ duyên cho nhen). Nếu không biết không tiện gọi thì cúng lúc chánh tý chánh ngọ chánh âm chánh dương 12h trưa, 12h đêm
Ai đi cũng nên xin một BAO LÌ XÌ LỘC BÀ về cho may mắn nha…nói thẳng trong bao có khi là tiền, có khi là tấm áo Bà Mặc cắt ra làm lộc
Cách sử dụng lộc Bà chúa xứ
khi rước lộc về nhà, thỉnh lộc bà lên một cái dĩa, sau đó để 4 ly nước suối kế bên, cầm từng ly lên khấn cung nghinh bà về cư gia, cứ mỗi ly nước ta khấn xong ta chế 4 góc nhà
sau đó trân trọng đặt lên bàn thờ ở Mẹ Quan Âm chứ không nên để chỗ thờ Ông Địa như các nhà thường làm. Sẽ khinh thường bà, mà ông địa ông thần tài năm đó cũng không về được khánh
khi đặt lên thì trong 9 ngày phải thay nước và 3 ngày thay trầu cau 1 lần
sau đó ta có thể bỏ bóp hay để bàn thờ nhưng ta nhớ thường xuyên khấn Bà xin độ cho chúng con. Nếu để bàn thờ thì nên đặt thêm quanh bao lộc đó 5 thứ ngũ cốc
cuối năm ngày 23 âm lịch hóa bao lộc này
…………..
Chánh điện gồm hai lớp. Lớp trong cùng là nơi thờ Bà Chúa Xứ với tượng Bà bằng đá đặt trên bệ cao, sát hai bên là hai con hạc trắng biểu tượng cốt cách tiên thánh của Bà. Bên phải tượng Bà là một linga cũng bằng đá đặt trên một hương án thờ, gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái tượng Bà là hương án thờ một tượng gỗ chạm hình yoni, gọi là bàn thờ Cô. Lớp thứ hai là bàn thờ Hội đồng, sát liền hai tượng chim phượng. Hai bên trái, phải của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (ở bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (ở bên phải).
Ngay lối vào chánh điện có đôi câu đối thể hiện quyền lực linh thiêng của Bà trong việc ban phúc, bảo vệ nhân dân.
Nội dung như sau: 求必應試必霛夢中指示 暹可驚清可慕意外難量
Phiên âm: Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng Dịch nghĩa: Cầu nhất định được, ban nhất định linh, báo cho biết trong mộng Người Xiêm phải sợ, người Thanh phải nể, không thể tưởng tượng nổi
Những bí ẩn quanh bức tượng Bà Chúa Xứ
Truyền thuyết Truyện xưa kể lại rằng: Những năm 1820 – 1825, Quân Xiêm thường sang nước ta quấy nhiễu, cướp bóc. Mỗi khi giặc đến, người dân quanh vùng lại phải bồng bế nhau chốn chạy lên núi lánh nạn. Có lần quân giặc đuổi theo lên đến đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà. Chúng hì hục cậy ra, lấy dây buộc lại dùng đòn khiêng xuống núi để mang về xứ. Nhưng khi bọn chúng mới khiêng đi được một đoạn đường ngắn, lạ thay tượng Bà bỗng dưng nặng trĩu không thể nào nhấc lên được nữa. Khi đó, một tên trong bọn tức giận đập vào cốt tượng làm gãy một phần cánh tay bên trái và ngay tức khắc hắn bị Bà trừng phạt.
Thời gian sau, Bà thường hiện về xưng là Bà Chúa Xứ, dạy dân làng khiêng xuống núi lập miếu thờ cúng. Bà sẽ phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp quấy phá, thoát khỏi dịch bệnh hoành hành. Thấy vậy, dân làng họp nhau lên núi khiêng tượng về thờ cúng. Nhưng lạ thay, dù mấy chục thanh niên trai tráng hò nhau gắng sức vẫn không lay chuyến nổi tượng Bà. Trong lúc mọi người đang rất thất vọng, có ý định bỏ dở thì một cô gái trong làng bỗng dưng lên đồng cho biết : “Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng”. Dân làng làm theo lời dạy ấy và qủa đúng thật 9 cô gái đồng trinh khiêng tượng Bà đi xuống một cách nhẹ nhàng. Bỗng nhiên khi đi đến chân núi thì tượng Bà trở nên nặng, không thể khiêng nổi thêm một bước nào nữa. Khi đó mọi người đã hiểu rằng, Bà đã chọn nơi đây để an vị nên đã không cố gắng di chuyển đi nữa mà lập miếu thờ cúng chỗ đó.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông Di Tích Lịch Sử Cách Mạng Cấp Quốc Gia Tỉnh Sóc Trăng trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!