Đề Xuất 5/2023 # Một Số Tập Tục Tín Ngưỡng Trong Nghề Buôn Ở Hội An # Top 12 Like | Herodota.com

Đề Xuất 5/2023 # Một Số Tập Tục Tín Ngưỡng Trong Nghề Buôn Ở Hội An # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Tập Tục Tín Ngưỡng Trong Nghề Buôn Ở Hội An mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

          + Tục thờ thần Tài và thổ địa tại các gia đình có buôn bán: Thần tài cụ thể được thờ phổ biến là Ngũ phương ngũ thổ long thần và Tiền hậu địa chủ Tài thần, Phước Đức Chính thần. Hiện nay, vẫn còn một số nhà trong Khu phố cổ còn trang thờ Phước Đức Chính thần, trong đó đáng chú ý là trang thờ được xây áp tường ở nhà 77 Trần Phú. Còn lại đa số các nhà buôn đều lập trang thờ thổ địa – thần tài bằng gỗ, thiết đặt ở nền đất gian trước của hiệu buôn, mặt trang thờ quay theo hướng mặt tiền. Lễ vật đặc trưng là tỏi để trừ tà kèm với một số lễ vật được thời đại hóa là thuốc lá, cafe. Đi kèm với thờ thần tài thì vào ngày mồng 2, 16 âm lịch hàng tháng người buôn bán lâu năm ở Hội An có lễ thắp hương, cúng cầu mua may bán đắt. Gần đây, vào mùa Trung thu, ngày 16/8 âm lịch – ngày thần tài của tháng 8, một số nhà buôn còn mời Lân, Thiên cẩu vào cửa hiệu để múa cầu may.

          + Tục thờ thần bảo hộ thuyền buôn, ghe bầu: Trên các ghe bầu nội địa thường có thờ Bà Thu Bồn, Bà Phường Chào hoặc Bà Chúa Ngọc. Những ghe bầu buôn đường biển của người Việt thờ Bà Đại Càn, Bà Thủy Long, Quan Thế âm Bồ Tát, đây là những vị thần thường phò trợ cho họ khi gặp nạn. Các thương thuyền của người Hoa thì thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, Quan Âm bồ tát. Ở cộng đồng thì tại miếu vạn ghe bầu ở Cẩm Nam có thờ Bà Đại Càn, Nam Hải cự tộc Ngọc lân tôn thần, những vị thần này cũng là những vị thần phò trợ cho ngư dân trên biển khi hành nghề, gặp nạn. Tuy nhiên tục thờ thần bảo hộ của nghề buôn ghe bầu ở trên ghe không còn nữa.

           + Tục vay vốn các thần để buôn bán, làm ăn: Ở Hội An hiện nay, vào đầu năm và vào các dịp lễ Tết quan trọng, những người làm nghề buôn bán thường đến các đền miếu, hội quán có thờ thần bảo trợ như Thiên hậu Thánh mẫu, Quan Công, thờ Tài thần, thờ Bà chúa tiên để xin vay một ít tiền làm vốn buôn bán. Tục lệ này rất phổ biến trong cộng đồng người Hoa, bà con làng Minh Hương xưa và cả đối với người Việt bôn bán lâu năm ở Hội An. Tục lệ này diễn ra sôi động trong Tết Nguyên Tiêu vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm ở Quan Công miếu, Hội quán Phước Kiến, Quảng Triệu, Triều Châu.

           + Tập tục cầu may: Vào đầu năm đến các di tích tín ngưỡng có thờ phúc thần để xin lộc, vay tiền cầu may. Cúng Thần linh, cầu may vào ngày sóc, vọng (mồng 1, rằm hàng tháng âm lịch); cúng Thần tài, Thổ địa cầu may vào ngày 2, 16 âm lịch hàng tháng; mời đầu Thiên cẩu, Lân múa trừ tà để cầu may vào dịp Lễ tết, Lễ Khai trương, vào tết Trung thu. Tục cúng/thắp hương mở hàng đầu năm, đầu ngày. Tục chọn ngày tốt để khai trương, mở hàng. Hiện nay, người buôn bán ở Hội An thường chọn ngày chẵn của tháng Giêng với điều kiện ngày đó không quá xấu để mở cửa hiệu buôn bán, hoặc xuất hành hành nghề cho cả năm.

           Ở các hộ buôn bán tại vùng nông thôn, thuộc các làng nghề, các làng quê, các tục trừ tà, xui rủi bằng cách xông thảo mộc (giác, hương, gai chanh, các thảo mộc khác…) khi liên tục bị xui rủi trong kinh doanh, tục kiêng kỵ bước qua đòn gánh, úp nón lên gánh hàng, coi trọng bàn tính, mất lợi đầu năm, đầu ngày (me xưa, mở hàng) vẫn được duy trì.

           Nhìn chung các tập tục tín ngưỡng này là kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, thể hiện sự tâm lý cũng như sự thịnh vượng một thời của nghề buôn Hội An. Hiện nay, di sản văn hóa này đang được bảo tồn và phát huy tốt trong đời sống hành nghề buôn bán cũng như trong các lễ hội văn hóa ở Hội An, góp phần tạo nên nét đặc trưng văn hóa của một đô thị từng là thương cảng quốc tế sầm uất một thời.      

Tục Lệ, Kiêng Cữ Trong Nghề Biển Ở Hội An

1. Tục lệ của ngư dân nghề biển Hội An 2. Kiêng cữ của ngư dân nghề biển  

Trước khi đi biển, công việc chuẩn bị đồ nghề, tàu thuyền rất quan trọng. Dàn đồ nghề không được cho ai bước qua. Khi khiêng giàn lưới xuống ghe tránh người đi ngang trước mặt nhất là phụ nữ. Khi cầm dầm đi làm phải ngó trước ngó sau, thấy vắng người mới đi, lỡ gặp người đi ngang qua thì phải đứng lại một chút mới đi tiếp hoặc khi đi ra thuyền mà có ai gọi hỏi thì làm thinh không trả lời. Đang chuẩn bị đi ra thuyền, một trong số những bạn nghề đi cùng mà nhảy mũi thì ngồi lại lúc sau mới đi. Người đi biển kiêng như vậy để tránh bị ô uế và gặp điều không may. Đặc biệt là những người đang chịu tang, người vợ mới sinh, người mắc “phong long”, phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt, người mới đi bốc mã về thì cấm không được xuống thuyền; người đi dự đám tang, lúc trở về không được vô nhà mà phải múc nước rửa mặt trước khi vào nhà, sau đó phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ mới được bước xuống thuyền. Những người đang chịu tang sau thời gian đi lại phải xin miếng khăn tang đốt cho hết “phong long” mới đi biển.

Khi đi xuống ghe, việc đầu tiên phải thắp hương khấn vái trước mũi ghe rồi mới xuất bến, có người còn mua giấy tiền vàng bạc đốt trước khi đi. Theo quan niệm của người đi biển, cửa biển là nơi rất linh thiêng nên khi ra cửa đều phải đi cẩn thận, chậm rãi không vội vã, không được đi vệ sinh ngay lúc này. Trên đường ra biển cữ gặp phải ghe khác hoặc đàn vịt đi ngang qua mũi vì sẽ gặp điều không may mắn, cản đường làm ăn.   

Ghe, tàu là phương tiện quan trọng nhất đối với người dân biển. Là nơi trú ngụ của họ trong những ngày tháng lênh đênh trên biển cả. Đây không chỉ là  phương tiện đánh bắt mà còn là mái nhà che chở họ, vì thế nó vô cùng quan trọng. Họ cũng xem tàu, thuyền như ngôi nhà của mình có những vị thần luôn ngự trị và có nhiều quan niệm về tàu, ghe như: Đối với ghe đi biển, phần quan trọng nhất là mũi ghe và mắt ghe. Mũi ghe là nơi cấm kỵ đàn bà ngồi lên vì sợ làm ô uế. Mắt ghe không để bị trầy mờ không thấy đường làm ăn không ra,  không để những đồ vật dơ nhớp chạm vào mắt ghe

Khi đã ra ngoài khơi thì người ta càng phải kiêng cữ nhiều thứ như: ra nhìn thấy bất cứ thứ gì xuất hiện dưới nước, trên bầu trời, trong không trung thì im lặng không được nói (quở), nhất là gặp cá Ông (cá Ông, ông mực, ông He,…) không được nói, mà những người đi biển luôn thể hiện sự tôn kính đối với “Ông”. Khi đang hành nghề kỵ làm rớt vận dụng như dao, chén bát, son nồi, muỗng, vá, gàu múc nước… xuống biển, bởi quan niệm nếu để vật rơi xuống biển thì xảy ra điềm xấu, sẽ trở ngại trong công việc, làm tổn hại đến Bà Thủy và sợ Bà nổi giận gây trở ngại cho họ trong những ngày hành nghề trên biển. Nếu lỡ làm rớt vật dụng xuống biển thì phải quay về, sắm lễ vật ra nơi làm rớt cúng xin lại con dao và cầu mong Bà bỏ qua cho sự sơ sẩy mình gây ra. Cũng có tục sắm con dao giả bằng chất liệu có thể nổi trên mặt nước, người ngồi trước (gần mũi ghe, tàu) giả vờ đánh rơi con dao xuống biển, người ngồi sau vớt lên là nói “á! Cái con dao được lại rồi”. Đối với các dụng cụ như thau, xoong nồi, gàu múc,.. thì đều phải để ngửa không được để úp trên ghe, tàu, vì sợ làm ăn không ra, cá không có.

Khi ở ngoài khơi, ngư dân đặc biệt kiêng kỵ việc chửi thề, ra tới chỗ làm không được nói chó, mèo. Khi thả hay kéo lưới cấm kỵ việc bước hay rúc qua lưới. Đối với nghề câu chỉ có ông lái (thuyền trưởng) làm mồi, khi xé mồi (móc câu cho cá) không được nhổ nước bọt vì sợ cá chê, không ăn mồi. Ông lái là người quăng câu đầu tiên rồi mới đến bạn nghề. Nghề mành khi cột ống đùng mành kỵ người đi tiểu tiện gần đó.

Đối với người làm nghề biển, cá voi (cá Ông) là vật linh, là chỗ dựa tinh thần, nơi gửi gắm niềm tin,… bởi cá voi thường chỉ đường dẫn lối cho những người lênh đênh trên biển khi gặp sóng to, gió lớn hay gặp hoạn nạn nên được họ tôn kính “Ngài” như những vị thần hộ mạng. Khi gặp sóng to gió lớn người đi biển chỉ biết khấn vái các vị thần, và gọi “Ông” phù trợ cứu giúp. Nhiều trường hợp Ông xuất hiện dìu con tàu qua sóng gió đại dương, có khi Ông dìu đến gần đảo Cù Lao Chàm rồi Ông lặn. Những hiện thực xảy ra lại càng củng có niềm tin về “Ngài” trong tâm tưởng của người dân biển.

Gặp cá Ông lụy trên biển phải tìm mọi cách để đưa Ông vào vờ (nếu cá lớn phải huy động thêm nhiều bạn tàu, ghe khác) làm lễ cúng theo phong tục truyền thống của người địa phương. Khi đi biển gặp xác người chết, thì phải cột xác kèm theo ghe và chạy về đất liền tổ chức mai tang, chôn cất, tuyệt đối không được vớt xác lên ghe đó là điều cấm kỵ đối với những người làm biển, vì theo họ trên ghe đã có vị thần ghe (Bà ghe) thì không đưa người chết lên, Bà sẽ quở trách, làm ăn không ra. Nếu bỏ người lên ghe phải bỏ ghe, sắm ghe mới để sử dụng.

Việc ăn uống của người đi biển cũng có một số kiêng kỵ nhất định như: Trước đây, ăn cơm chuẩn bị đi nghề thì phải núp trong buồng ăn, sợ người khác nhìn thấy “quở” làm ăn không hiệu quả. Hằng ngày không được ăn thịt chó, mèo, trâu, vít (dích) vì sợ ra biển khơi nếu gặp chuyện gì thì cá Ông không cứu. Nấu ăn trên ghe, tàu nếu có phụ nữ đi cùng phụ trách công việc nấu nướng tự động làm không nói. Cá bắt được khi làm mở hàng, không nên chiên, chỉ kho hoặc nấu canh, bởi vì họ quan niệm cá cháy “khê nghề”. Nghề mành thì không được nướng cá ăn. Khi làm cá không được cắt đuôi cũng như không ăn phần đuôi cá vì cá có đuôi mới bơi được, cắt hoặc ăn phần đuôi không đánh được cá. Khi ăn cá hết một bên, không được lật con cá lại vì kiêng chữ “lật” sợ bị lật ghe. Ngoài ra, việc mượn, đòi, trả khi đi làm mở hàng đầu năm là điều kỵ đối với người làm nghề biển.

Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày khi ở trên biển, người làm nghề cũng có nhiều từ ngữ kiêng kỵ, nói chệch một số hiện tượng, sự vật như: ăn gọi là “chíp”, chiên gọi là “cum”; ngủ gọi là “thắt”, cá bò gọi là “mồi da”, hạ buồm gọi là “xuống buôm”; gàu tát nước gọi là “cái mũ”; “tát nước” gọi là “lạch nước”; “cá gọi là “rau”; một chục cá gọi là “bó”, 100 cá gọi là “lằm”, 1000 cá gọi là “thiên”, một vạn gọi là “ngón””

Cuộc sống lênh đênh trên biển cả của những ngư dân làm nghề biển nhiều khó khăn vất vã, luôn ẩn chứ nhiều mối nguy hiểm mà không ai có thể biết trước được và những sự cố bất ngờ cũng rất khó chống đỡ, họ hiểu được sự nhỏ bé của mình trước biển cả, nên trong tâm thức họ luôn có niềm tin vào sự phù trợ của các đấng siêu nhiên, những vị thần của biển cả, từ đó dần hình thành nên tục lệ và cả sự kiêng cữ cho riêng họ. Những tục lệ, kiêng cữ này phản ánh tâm thức, quan niệm của ngư dân trong hành nghề, thái độ ứng xử với cộng đồng, với thiên nhiên. Đằng sau những điều tưởng như là mê tín nhưng đó là khát khao, mong muốn sự bình yên, may mắn, đánh bắt được nhiều tôm, cá, mùa màng bội thu. Việc thể hiện những nghi thức tục lệ và cả những điều kiêng kỵ ấy không chỉ cầu mong sự bình an trong tâm thức của ngư dân mà còn thể hiện lòng biết ơn, sự tôn kính, tri ân đối với các đấng thần linh, thế lực siêu nhiên đã phù hộ, độ trì cho họ trong cuộc sống, nghề nghệp của mình./.

Tài liệu trích dẫn và chú thích:  

Làm nghề biển nên những ngư dân Hội An có đời sống tâm linh phong phú. Khi ra biển, đối diện với những hiểm nguy do thiên nhiên gây ra đã dần dần tạo nên tâm lý kiêng kỵ của người dân miền biển. Bởi do cuộc sống mưu sinh, phương tiện hành nghề trên biển thuyền là chính, họ phải lênh đênh giữa muôn trùng sóng gió, biển khơi, không một điểm tựa. Giữa biển cả bao la ấy, con thuyền ví như “hạt cát giữa sa mạc” phải luôn đối mặt với mọi hiểm nguy, trước sức mạnh của thế lực siêu nhiên. Mỗi lần ra khơi hay vào bờ họ luôn cầu nguyện những thần linh, thế lực siêu nhiên nào đó có thể cứu giúp, dẫn dắt họ một cách an toàn, cầu mùa màng bội thu trong những chuyến “vươn xa bám biển”. Trong tâm thức những người dân biển luôn có quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên họ rất tin tưởng vào thế giới vô hình nào đó. Trải qua những năm tháng lênh đênh trên biển cả để mưu sinh, họ gặp không ít những điều may mắn, hên, xui và cả những điều lạ thường mà có lẽ những người không làm nghề này sẽ không bao giờ nhìn thấy được, có thể nói “khó giải thích tại sao?” nên họ tin vào những thế lực nào đó và dần họ tự đặt ra những điều kiêng cữ. Cứ thế, thế hệ sau học hỏi thế hệ trước, “bắt chước” làm theo như một quy định của nghề biển. Hiện nay việc kiêng cữ giảm đi nhưng vẫn không làm mất đi vai trò trong đời sống thường ngày và trong tín ngưỡng của người dân miền biển.Trước khi đi biển, công việc chuẩn bị đồ nghề, tàu thuyền rất quan trọng. Dàn đồ nghề không được cho ai bước qua. Khi khiêng giàn lưới xuống ghe tránh người đi ngang trước mặt nhất là phụ nữ. Khi cầm dầm đi làm phải ngó trước ngó sau, thấy vắng người mới đi, lỡ gặp người đi ngang qua thì phải đứng lại một chút mới đi tiếp hoặc khi đi ra thuyền mà có ai gọi hỏi thì làm thinh không trả lời. Đang chuẩn bị đi ra thuyền, một trong số những bạn nghề đi cùng mà nhảy mũi thì ngồi lại lúc sau mới đi. Người đi biển kiêng như vậy để tránh bị ô uế và gặp điều không may. Đặc biệt là những người đang chịu tang, người vợ mới sinh, người mắc “phong long”, phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt, người mới đi bốc mã về thì cấm không được xuống thuyền; người đi dự đám tang, lúc trở về không được vô nhà mà phải múc nước rửa mặt trước khi vào nhà, sau đó phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ mới được bước xuống thuyền. Những người đang chịu tang sau thời gian đi lại phải xin miếng khăn tang đốt cho hết “phong long” mới đi biển.Khi đi xuống ghe, việc đầu tiên phải thắp hương khấn vái trước mũi ghe rồi mới xuất bến, có người còn mua giấy tiền vàng bạc đốt trước khi đi. Theo quan niệm của người đi biển, cửa biển là nơi rất linh thiêng nên khi ra cửa đều phải đi cẩn thận, chậm rãi không vội vã, không được đi vệ sinh ngay lúc này. Trên đường ra biển cữ gặp phải ghe khác hoặc đàn vịt đi ngang qua mũi vì sẽ gặp điều không may mắn, cản đường làm ăn.Ghe, tàu là phương tiện quan trọng nhất đối với người dân biển. Là nơi trú ngụ của họ trong những ngày tháng lênh đênh trên biển cả. Đây không chỉ là phương tiện đánh bắt mà còn là mái nhà che chở họ, vì thế nó vô cùng quan trọng. Họ cũng xem tàu, thuyền như ngôi nhà của mình có những vị thần luôn ngự trị và có nhiều quan niệm về tàu, ghe như: Đối với ghe đi biển, phần quan trọng nhất là mũi ghe và mắt ghe. Mũi ghe là nơi cấm kỵ đàn bà ngồi lên vì sợ làm ô uế. Mắt ghe không để bị trầy mờ không thấy đường làm ăn không ra, không để những đồ vật dơ nhớp chạm vào mắt ghe [6] . Khi ở trên ghe, tàu muốn đi vệ sinh đều phải đi bên “đốc” (bên phải ghe), cấm kỳ việc đi bên lái (bên trái ghe) vì bên này là bên để thả kéo lưới và để dây miệng của mành lưới. Ngoài ra, việc mang đồ ăn lên ghe, tàu cũng có những kiêng cữ nhất định như không được mang vịt, mít, bí đao, bí rợ, hột vịt lộn, dầu phộng (trơn không làm ăn được), đồ ô uế, những thức ăn này mang theo sợ làm ăn không ra, đánh bắt không có cá, gặp điều không may mắn. Khi đi đánh cá được ít cá, trong khi các ghe khác đánh được nhiều cá, người chủ ghe đoán biết được ghe mình bị ô uế, “phong long” khi vào bờ thì phải mời thầy về cúng hoặc xông “phong long” bằng cách dùng muối sống, ớt bột bỏ vào nồi đất bặt trên lò than đem xuống ghe xông hoặc dùng 9 loại lá có gai xông; có người mua kẹo bánh đem xuống ghe lắt “nhử” cho “phong long” ra khỏi ghe; dùng lá Cửu Hương dầm cho ra nước rồi dội xuống ghe, tàu trước khi đi biển (theo quan niệm của người đi biển cây này rất thiêng nên kỵ người lạ bứt trộm cây sẽ chết). Cũng có một số chủ ghe tin tưởng những nơi xem bói (nơi có điện thờ để hầu đồng) xin nước về rưới lên lưới để dễ làm ăn, đánh bắt được nhiều cá.Khi đã ra ngoài khơi thì người ta càng phải kiêng cữ nhiều thứ như: ra nhìn thấy bất cứ thứ gì xuất hiện dưới nước, trên bầu trời, trong không trung thì im lặng không được nói (quở), nhất là gặp cá Ông (cá Ông, ông mực, ông He,…) không được nói, mà những người đi biển luôn thể hiện sự tôn kính đối với “Ông”. Khi đang hành nghề kỵ làm rớt vận dụng như dao, chén bát, son nồi, muỗng, vá, gàu múc nước… xuống biển, bởi quan niệm nếu để vật rơi xuống biển thì xảy ra điềm xấu, sẽ trở ngại trong công việc, làm tổn hại đến Bà Thủy và sợ Bà nổi giận gây trở ngại cho họ trong những ngày hành nghề trên biển. Nếu lỡ làm rớt vật dụng xuống biển thì phải quay về, sắm lễ vật ra nơi làm rớt cúng xin lại con dao và cầu mong Bà bỏ qua cho sự sơ sẩy mình gây ra. Cũng có tục sắm con dao giả bằng chất liệu có thể nổi trên mặt nước, người ngồi trước (gần mũi ghe, tàu) giả vờ đánh rơi con dao xuống biển, người ngồi sau vớt lên là nói “á! Cái con dao được lại rồi”. Đối với các dụng cụ như thau, xoong nồi, gàu múc,.. thì đều phải để ngửa không được để úp trên ghe, tàu, vì sợ làm ăn không ra, cá không có.Khi ở ngoài khơi, ngư dân đặc biệt kiêng kỵ việc chửi thề, ra tới chỗ làm không được nói chó, mèo. Khi thả hay kéo lưới cấm kỵ việc bước hay rúc qua lưới. Đối với nghề câu chỉ có ông lái (thuyền trưởng) làm mồi, khi xé mồi (móc câu cho cá) không được nhổ nước bọt vì sợ cá chê, không ăn mồi. Ông lái là người quăng câu đầu tiên rồi mới đến bạn nghề. Nghề mành khi cột ống đùng mành kỵ người đi tiểu tiện gần đó.Đối với người làm nghề biển, cá voi (cá Ông) là vật linh, là chỗ dựa tinh thần, nơi gửi gắm niềm tin,… bởi cá voi thường chỉ đường dẫn lối cho những người lênh đênh trên biển khi gặp sóng to, gió lớn hay gặp hoạn nạn nên được họ tôn kính “Ngài” như những vị thần hộ mạng. Khi gặp sóng to gió lớn người đi biển chỉ biết khấn vái các vị thần, và gọi “Ông” phù trợ cứu giúp. Nhiều trường hợp Ông xuất hiện dìu con tàu qua sóng gió đại dương, có khi Ông dìu đến gần đảo Cù Lao Chàm rồi Ông lặn. Những hiện thực xảy ra lại càng củng có niềm tin về “Ngài” trong tâm tưởng của người dân biển.Gặp cá Ông lụy trên biển phải tìm mọi cách để đưa Ông vào vờ (nếu cá lớn phải huy động thêm nhiều bạn tàu, ghe khác) làm lễ cúng theo phong tục truyền thống của người địa phương. Khi đi biển gặp xác người chết, thì phải cột xác kèm theo ghe và chạy về đất liền tổ chức mai tang, chôn cất, tuyệt đối không được vớt xác lên ghe đó là điều cấm kỵ đối với những người làm biển, vì theo họ trên ghe đã có vị thần ghe (Bà ghe) thì không đưa người chết lên, Bà sẽ quở trách, làm ăn không ra. Nếu bỏ người lên ghe phải bỏ ghe, sắm ghe mới để sử dụng.Việc ăn uống của người đi biển cũng có một số kiêng kỵ nhất định như: Trước đây, ăn cơm chuẩn bị đi nghề thì phải núp trong buồng ăn, sợ người khác nhìn thấy “quở” làm ăn không hiệu quả. Hằng ngày không được ăn thịt chó, mèo, trâu, vít (dích) vì sợ ra biển khơi nếu gặp chuyện gì thì cá Ông không cứu. Nấu ăn trên ghe, tàu nếu có phụ nữ đi cùng phụ trách công việc nấu nướng tự động làm không nói. Cá bắt được khi làm mở hàng, không nên chiên, chỉ kho hoặc nấu canh, bởi vì họ quan niệm cá cháy “khê nghề”. Nghề mành thì không được nướng cá ăn. Khi làm cá không được cắt đuôi cũng như không ăn phần đuôi cá vì cá có đuôi mới bơi được, cắt hoặc ăn phần đuôi không đánh được cá. Khi ăn cá hết một bên, không được lật con cá lại vì kiêng chữ “lật” sợ bị lật ghe. Ngoài ra, việc mượn, đòi, trả khi đi làm mở hàng đầu năm là điều kỵ đối với người làm nghề biển.Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày khi ở trên biển, người làm nghề cũng có nhiều từ ngữ kiêng kỵ, nói chệch một số hiện tượng, sự vật như: ăn gọi là “chíp”, chiên gọi là “cum”; ngủ gọi là “thắt”, cá bò gọi là “mồi da”, hạ buồm gọi là “xuống buôm”; gàu tát nước gọi là “cái mũ”; “tát nước” gọi là “lạch nước”; “cá gọi là “rau”; một chục cá gọi là “bó”, 100 cá gọi là “lằm”, 1000 cá gọi là “thiên”, một vạn gọi là “ngón”” [7] ,… Khi kéo lưới hết lên ghe thì dùng từ “chững” thay cho từ “thôi” vì họ cho rằng từ “thôi” sẽ làm cho những lần đi biển tiếp theo không thu hoạch được gì. Khi ra biển đánh bắt ngư dân cũng không nhắc đến từ “sóng” mà dùng hoàn toàn từ “nhóc”. Các dụng cụ hành nghề biển gọi chung là “ngư cụ” nhưng người dân cũng không sử dụng từ này mà thay vào đó là từ “bộ nghề”.Cuộc sống lênh đênh trên biển cả của những ngư dân làm nghề biển nhiều khó khăn vất vã, luôn ẩn chứ nhiều mối nguy hiểm mà không ai có thể biết trước được và những sự cố bất ngờ cũng rất khó chống đỡ, họ hiểu được sự nhỏ bé của mình trước biển cả, nên trong tâm thức họ luôn có niềm tin vào sự phù trợ của các đấng siêu nhiên, những vị thần của biển cả, từ đó dần hình thành nên tục lệ và cả sự kiêng cữ cho riêng họ. Những tục lệ, kiêng cữ này phản ánh tâm thức, quan niệm của ngư dân trong hành nghề, thái độ ứng xử với cộng đồng, với thiên nhiên. Đằng sau những điều tưởng như là mê tín nhưng đó là khát khao, mong muốn sự bình yên, may mắn, đánh bắt được nhiều tôm, cá, mùa màng bội thu. Việc thể hiện những nghi thức tục lệ và cả những điều kiêng kỵ ấy không chỉ cầu mong sự bình an trong tâm thức của ngư dân mà còn thể hiện lòng biết ơn, sự tôn kính, tri ân đối với các đấng thần linh, thế lực siêu nhiên đã phù hộ, độ trì cho họ trong cuộc sống, nghề nghệp của mình./.

Phong Tục Tín Ngưỡng Của Người Kinh…

Người Việt ở Quảng Ngãi đa số là dân gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh di cư vào trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, cư trú chủ yếu ở 6 huyện đồng bằng, các huyện lỵ, thị xã, các thị trấn, huyện lỵ các huyện miền núi và một số ít sống xen kẽ với các dân tộc thiểu số trong các làng nóc.

Người Việt ở Quảng Ngãi thường xây nhà tranh vách đất. Từ năm 1975 xuất hiện ngày càng nhiều nhà lợp ngói, tường xây. Dưới mái nhà ấy là khoảng không gian văn hóa bảo lưu các nếp sống, tâm lý cộng đồng được sàng lọc qua bao thế hệ. Các tập tục của cộng đồng và dân tộc lần lượt diễn ra trong một gia đình theo một chu kỳ sống của mỗi cá nhân, thế ứng xử với gia đình, gia tộc, xóm làng và xã hội.

Bên cạnh việc duy trì một số tập tục của dân tộc Việt từ miền Bắc, người Việt ở Quảng Ngãi có một số tập quán riêng như cách xưng hô tên gọi, thứ bậc trong gia đình, cách nấu nướng các món ăn. Họ đã đơn giản hóa nhừng gì rườm rà, tạo nên một nếp sống phù hợp với hoàn cảnh của vùng đất mới.

Cưới hỏi:

Ngày trước, con trai con gái độ 15, 16 tuổi là dựng vợ gả chồng. Có khi hai gia đình ước hẹn thông gia lúc con mới sinh, nhưng hầu như nạn tảo hôn không nhiều.

Trong hôn nhân, ngày trước người ta thường tìm chỗ “môn đăng hộ đối”. Hiện nay việc đó đã giảm, duy vẫn còn tục coi người hợp tuổi, coi ngày để làm lễ hỏi, cưới kiêng kỵ trong nhà có tang. Phía trai chọn người làm “mai dong”, ăn nói lịch thiệp, gia đình hòa thuận, đến thuyết phục gia đình nhà gái. Nếu được nhà gái đồng ý thì nhà trai đem trầu cau dến dạm hỏi, gọi là lễ sơ vấn. Tiếp đến là lễ ăn hỏi. Người cha đằng trai và người mai dong mang trầu cau, trà rượu và đôi bằng tai vàng đến nhà gái làm sính lễ cho cô dâu. Sau đó, chàng rể thường về giúp việc nhà vợ. Ngày tết giỗ chạp, chàng rể phải có mặt ở nhà vợ.

Hai bên gia đình trai gái cùng nhau thỏa thuận lễ vật chọn ngày giờ tốt làm lễ cưới mong tránh khỏi trắc trở về sau. Trong lễ cưới, họ nhà trai gồm bà con thân thích, phù rể và người gánh xiểng (đựng lễ vật) đưa chú rể đến nhà gái. Số người luôn là số chẵn. Ðến ngõ nhà gái, họ nhà gái đốt pháo chào mừng, đón tiếp họ nhà trai vào nhà. Lễ vật được đặt lên bàn thờ tổ tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Ðôi tân hôn lạy trước bàn thờ, kính cáo với tổ tiên, ông bà bên vợ và trao nhẫn cưới. Ðại diện hai họ nói những lời tốt đẹp cảm ơn nhau, họ nhà trai nhận dâu, họ nhà gái nhận rể. Sau đó là tiệc mừng giữa hai họ với bà con bên nhà gái. Ðúng giờ đã định, họ nhà trai rước dâu, họ nhà gái đưa dâu về nhà chồng. Số người họ nhà gái đi đưa dâu thường là bằng số người nhà trai. Phía nhà trai cũng tiếp đón tương tự. Ðôi tân hôn lạy trước bàn thờ kính cáo với tổ tiên ông bà, bên phía chồng. Tiếp đó là lễ tơ hồng, tạ nguyệt lão xe duyên cho vợ chồng trăm năm hạnh phúc. Xong lễ cưới, chiều hôm đó hoặc ba ngày sau vợ chồng đưa nhau về bên nhà vợ làm lễ “phản bái” để cảm ơn cha mẹ vợ có công sinh thành nuôi dạy người con gái và tổ chức lễ cưới.

Ngày trước có nhiều gia đình giàu thách cưới rất phiền phức, làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi trẻ.

Ngày nay, nam nữ thanh niên đến tuổi trưởng thành tự tìm hiểu nhau, song cha mẹ vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc dựng vợ gả chồng cho con. Khi hai bên đã thỏa thụận thì làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền cơ sở. Tục gánh xiểng được thay bằng mang đôi quả đựng lễ vật. Và từ đầu năm 1995, bỏ tục đốt pháo trong lễ cưới.

Sinh con:

Thông thường vợ chồng thích sinh con trai đầu lòng. Con đầu lòng thường sinh ở nhà cha mẹ vợ (con so nhà mạ, con rạ nhà chồng). Trong mỗi làng thường có bà “mụ” chuyên giúp cho sản phụ mẹ tròn con vuông.

Theo tập quán, đứa bé sinh ra, rốn được cắt chôn hoặc giấu cẩn thận, tránh thấm nước mái hiên để đứa trẻ khỏi bị ghẻ ở đầu hoặc loét mắt. Sản phụ nằm ở buồng kín, tránh gió, dưới giường luôn có nồi lửa than, ăn thức ăn khô và mặn. Ðến hôm “đầy cử” (trai bảy ngày, gái chín ngày), sau khi xông muối, xoa nghệ, người mẹ mới được ra khỏi buồng và một tháng sau mới dần trở lại sinh hoạt bình thường. Ðứa trẻ được tắm rửa sạch, quấn tả lót, thường hơ lửa, đánh dầu kỹ lưỡng. Ðến lúc đầy tháng (gái tụt hai, trai tụt một ngày), cha mẹ cùng xin keo và đặt tên cho con. Tên con thường thể hiện ước mong của cha mẹ về tương lai con cái tránh trùng tên tổ tiên, ông bà và những bà con gần gũi. Bên cạnh tên chính, vì mê tín, có khi đứa bé được dặt tên phụ xấu hơn để quý thần quên đi đứa trẻ, cha mẹ dễ nuôi.

Con tròn một năm tuổi, cha mẹ tổ chức lễ.cúng “thôi nôi”. Trong lễ người ta đặt các loại bút giấy, gương lược, kim chỉ, bánh kẹo… để khi đứa trẻ cầm vật gì trước thì người ta dự đoán tương lai nghề nghiệp của nó. Những đứa trẻ “khó nuôi” thường được cha mẹ đem lên chùa xin làm con của Phật, hoặc đem đến thầy cúng làm con tổ tiên (tục này gọi là “khoán”, “bán khoán” đến 10, 12 tuổi làm lễ chuộc về. Khi người khác ẳm đứa trẻ đi đâu thì bôi lọ nồi lên trán để tránh điều không hay. Con khóc đêm (dạ đề) hoặc giật mình thì lấy đồ sắt để ở đầu giường. Con nấc thì lấy lá trầu dán vào trán… Ngày nay các phong tục tập quán lạc hậu trong sinh con chỉ còn rất hiếm, ở vùng xa xôi hẻo lánh. Ða phần phụ nữ đã sinh con tại nhà hộ sinh địa phương hoặc khoa sản bệnh viện. Các lễ đặt tên con, “thôi nôi” đã giản ước và tiến bộ hơn trước.

Tang ma:

Người hấp hối được đưa ra chánh tẩm, con cái tụ lại xung quanh để nghe lời trăn trối. Người chết được tắm rửa bằng trầm hương, thay quần áo sạch, đắp tờ giấy trắng lên mặt. Gia đình lấy ít gạo hoặc ít vàng bỏ vào miệng người chết, gọi là “phạn hàm” (phong tục từ Trung Quốc cổ đại). Phạn hàm xong, người chết được đặt nằm trên chiếu trải dưới đất, sau một lát, đưa lên giường. Người thân thuộc trong nhà đều im lặng, cùng niệm Phật khi có tụng kinh (nếu gia chủ theo đạo Phật), đi chân không, không dùng đồ trang sức, không trang điểm son phấn.

Khâm liệm người chết thì tùy giàu nghèo mà dùng vóc nhiễu tơ lụa, hoặc vải trắng để may đồ đại liệm và tiểu liệm. Ðồ tiểu liệm là tấm chăn nhỏ bọc thi thể, đồ đại liệm là tấm chăn lớn bọc ngoài, có một đai buộc dọc và 5 đai buộc ngang. Ngoài ra còn có. bao bàn tay, bàn chân để giữ cứng các đốt tay chân không rơi vãi khi cơ thể người chết tan rửa.

Khâm liệm xong, người ta đặt thi hài vào quan tài, đem để giữa nhà (nếu trong nhà còn người lớn hơn thì để một bên), đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân. Trên quan tài đặt 7 ngọn đèn, lư hương, một chén cơm bông và hột gà luộc để thờ. Trước linh cửu có đặt linh tọa (bàn thờ vong) gồm bài vị, ảnh, đèn cầy, hồn bạch. Sau đó làm lễ phát tang (lễ thành phục). Thân quyến người chết dâng lễ lên linh tọa, bịt khăn tang, mặc tang phục, thứ tự xếp hàng lễ bái, luân phiên túc trực bên linh cửu để cúng và tạ ơn khách đến viếng. Khi quan tài quàng trong nhà, người ta thường mời phường bát âm xướng nhạc tang tỏ lòng thương tiếc và đưa hồn người chết về nơi siêu thoát.

Hội đua thuyền trên Sông Trà Khúc

Hội ra quân đánh cá đầu năm:

Ngư dân vùng biển có hội ra quân đánh cá vào ngày mồng 3 tháng Giêng âm lịch. Các tàu thuyền đánh cá tập trung làm lễ. Chủ thuyền mặc áo dài khăn đóng rất trang trọng. Thuyền mang nhiều pháo, vừa chạy ra khơi vừa đốt pháo.

Ðánh xong mẻ lưới cá đầu tiên, họ quay vào vui vẻ chúc mừng nhau.

Thờ cá Ông:

Ngư dân có tục thờ cá Ông (cá voi). Cá Ông hiền lành, có khi đỡ thuyền bị nạn, ngư dân tin đó là thần linh. Khi cá chết dạt vào bờ, ngư dân tổ chức lễ mai táng, cúng tế và lập đền thờ. Lúc mai táng và ngày rằm tháng 7 hàng năm có tổ chức, hát bá trạo, điệu hát phổ biến của dân vạn chài.

Tôn giáo:

Ngoài thờ phụng tổ tiên và những người thân yêu đã chết, ngoài đức tin vào thần linh gắn liền với nghề nghiệp, một số dân Quảng Ngãi còn có lòng sùng kính đạo Phật từ hàng trăm năm trước. Ðạo Phật với thuyết từ bi hỉ xã, lấy ăn ngay ở thật làm đầu, không phân biệt giàu nghèo, thứ bậc, nên có sức lôi cuốn nhiều người. Ngoài một số ít người tu hẳn ở chùa, còn hầu hết thiện nam tín nữ thường đi chùa vào các ngày ràm, mồng một nhất là ngày lễ Phật đản và ngày Vu lan.

Chùa Tỉnh hội Phật Giáo

Một số dân trong tỉnh còn theo đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Cao đài với những đức tin khác nhau và nghi lễ thờ phụng khác nhau, cũng với ý thức hướng thiện, tránh điều ác.

Blog mĩ thuật

Tín Ngưỡng Thờ Quan Công Của Người Hoa Ở Tp Hồ Chí Minh (Trường Hợp Ở Nghĩa An Hội Quán)

NGUYỄN THÁI HOÀ(Trường Đại Học Văn hoá TP Hồ Chí Minh)

1.

Quan Công là một vị thần có địa vị tối cao trong hệ thống chư thần ở Trung Quốc, được cả Nho, Phật, Lão thờ phụng. Nho giáo xem Quan Công là “Võ Thánh Đế Quân” (còn Văn Thánh là Khổng Tử), Phật giáo xem Quan Công là Hộ pháp gọi là “Già Lam Bồ tát”, còn Đạo giáo phong Quan Công là “Tam giới Phục ma Đại đế”. Cả tam giáo Nho, Phật, Lão đã tích hợp từ văn hoá dân gian, truyền thuyết, ghi chép… và từ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nổi tiếng để “sáng tạo” nên một hình tượng Quan Công “Trung nghĩa”, “Nho nhã”, “Anh linh”, “Thần uy”. Còn đối tượng sùng bái Quan Công thì trên có các bậc Đế vương, dưới là dân bách tính, văn nhân, nghĩa sĩ,… Dưới thời Minh, Thanh, miếu Quan Công được xây dựng rộng khắp, hương khói cực thịnh và trở thành một trong những vị thần minh quan trọng nhất trong lịch sử văn hoá Trung Quốc.

Nho xưng Thánh, Thích xưng Phật, Đạo xưng Thiên tôn, tam giáo tận quy y. Thức chiêm miếu mạo trường tân, vô nhân bất túc nhiên khởi kính; Hán phong Hầu, Tống phong Vương, Minh phong Đại đế, lịch triều gia tôn hiệu. Thẩn thị thần công trác trứ, chân sở vị đãng hồ nan danh.

Có một câu đối rất hay trong miếu thờ Quan Công, thể hiện tầm ảnh hưởng to lớn cũng như địa vị của ông như sau: [5, tr. 57]

Nhà Hán ban tước Hầu, nhà Tống ban tước Vương, nhà Minh ban tước Đại đế, trải qua nhiều triều đại đều tăng thêm hiệu quý. Những điều khó thấy, những việc phi thường của thần ban xuống là những điều chân thực vô lượng, khó mà gọi đúng tên.

Tạm dịch: Nho gọi là Thánh, Thích gọi là Phật, Đạo gọi là Thiên tôn, ba tôn giáo ấy con người đều quay về nương tựa. Nhận biết và thấy nơi thờ tự lâu dài trùng tu mới, không người nào thiếu sự tôn trọng,

Khi người Hoa di cư đến Việt Nam, họ cũng mang theo tín ngưỡng thờ Quan Công và xem Quan Công là một trong ba vị thần tối thượng (cùng với Ma Tổ và Phúc Đức Chánh Thần) trong đời sống tinh thần của họ. Trong các hội quán, tuỳ theo quan niệm của mỗi nhóm cộng đồng người Hoa, mà Quan Công được thờ chính ở gian giữa chánh điện hay là vị thần tùng tự. Nhưng dù như thế nào, thì người Hoa đối với Quan Công vẫn luôn một lòng thành kính, sùng bái. Thí dụ như trong việc kinh doanh hùn hạp nếu có tranh chấp, người ta thường thách nhau đến trước bàn thờ Quan Công thề thốt. Câu nói “Có mặt Ông làm chứng” đối với người Hoa mang tính thiêng liêng, có giá trị hơn tất cả các loại văn bản hợp đồng. [8, tr. 124]

2. Căn nguyên sùng bái Quan Công

Quan Công từ khi mất rồi, linh hồn không tan, cứ là là bay trên không, đến mãi một trái núi ở huyện Đương Dương, thuộc về châu Kinh Môn gọi là núi Ngọc Tuyền. Trên núi có một nhà sư già, tên là Phổ Tĩnh. Bữa ấy vào độ cuối canh ba, trăng thanh gió mát, Phổ Tĩnh đang ngồi trong am tụng kinh, bỗng nghe ở trên không có tiếng gọi trong lên rằng: “Đem trả đầu ta đây”. Phổ Tĩnh ngẩng mặt lên xem thì thấy trên không có một người cưỡi ngựa Xích Thố, cầm đao thanh long… Phổ Tĩnh trông rõ ràng là Quan Công, mới lấy đuôi phất trần đang cầm trong tay, gõ vào cánh cửa mà hỏi rằng: “Vân Trường ở đâu?”. Linh hồn Vân Trường sực tỉnh ra, lập tức xuống ngựa, cưỡi gió sa xuống trước am, chắp tay hỏi rằng:”Sư cụ ở đây là gì? Xin cho tôi được biết pháp hiệu?” Phổ Tĩnh nói:”Lão tăng tên là Phổ Tĩnh”… Quan Công nhớ ra, nói rằng:”Xin cầu lời thanh hối, chỉ điểm đường mê muội cho tôi”… Phổ Tĩnh nói:”Xưa trái nay phải, nhất thiết không bàn, nhân trước quả sau, bao giờ vẫn thế…” Quan Công tỉnh ngay ra, cúi đầu lạy tạ rồi biến đi mất. Về sau thường thường hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền, cứu hoạ cho nhân dân phương ấy. Dân ở đây cảm ân đức, lập miếu trên đỉnh núi, bốn mùa tế bái. 2

Một truyền thuyết khác lại kể rằng: Kiếp trước Quan Vũ là “Giải Lương Lão rồng” (Con rồng ở Giải Lương). Vào thời Hán Hằng Đế, vùng Hà Đông liên tiếp nhiều năm bị hạn hán, cư dân trong vùng tương truyền rằng trong núi có một pho tượng rồng rất linh thiêng, có thể trừ được hạn hán, nên tất cả mọi người cùng tập trung lại và quỳ khóc. Lão rồng cảm kích trước tấm lòng của dân chúng, liền hô mưa gọi gió, rút nước sông Hoàng Hà để trừ hạn cho dân. Thượng Đế nghe tin, cho rằng Lão rồng không nghe theo mệnh lệnh, liền tước quyền làm mưa cứu dân và lệnh cho Thiên Tào dùng kiếm chém đứt đầu Lão rồng, khiến cho đầu rồng rơi xuống đất. Một nhà sư ở huyện phố Đông Giải phát hiện thấy đầu rồng liền đem vào trong am và đặt vào một cái bình lớn, tụng kinh 9 ngày. Bất ngờ có tiếng kêu trong bình vọng ra, nhưng bên trong thì không có vật gì. Cùng lúc đó trong nhà họ Quan Đạo Viễn (tên Nghị) hạ sinh một bé trai. Đứa bé này mang biệt danh là Thọ, đi học lấy tên là Trường Sinh, tên sau gọi là Vũ, tự Vân Trường. Gặp nạn tại Mạch Thành, công hồn được đưa đến núi Ngọc Tuyền, huyện Đương Dương, bái nhà sư Phổ Tĩnh làm sư, đắc thành chính quả. [11, tr. 27-28].

Nhưng sách Phật tổ thống kí, Trí giả truyện lại cho rằng, Quan Vũ quy y Phật pháp vào thời Tuỳ Văn Đế Thăng Hoàng năm thứ 12 (năm 592), khi nhà sư ở núi Thiên Đài là Trí Kí đi huyện Đương Dương, nằm mơ thấy một vị thần râu dài tự xưng là Quan Vũ, tướng nhà Hán, đang ngụ tại núi Đương Dương, mong muốn được làm đệ tử cửa Phật, bảo vệ Phật pháp. Nhà sư Trí Kí liền tâu với Tấn Vương Dương Quảng và truy phong Quan Vũ làm thần Hộ pháp (thần bảo vệ Phật pháp). [11, tr. 28].

Khác với quan điểm của Phật gia, Đạo gia cho rằng Quan Vũ chính là vị thần tướng phò giúp cho Trương Thiên Sư. Sách Hán Thiên sư thế gia, quyển 1, viết: “Tống Sùng Ninh năm thứ 2 (1103), Tống Huy Tông từng hạ chiếu cho Trương Thiên Sư (Trương Kế Tiên) đời thứ 30 đi trừ yêu quái tại Chiếu Trì (nay thuộc Diên Trì, Giải Châu, Sơn Tây). Sau khi Trương Thiên Sư trừ yêu quái toàn thắng trở về, Tống Huy Tông hỏi Trương Thiên Sư: Ai đã phò tá ngươi trong việc này? Trương Thiên Sư đáp: Người giúp cho thần là Quan Vũ. Trong lúc thần diệt trừ yêu tinh thì Quan Vũ đã lập tức đến chiêu ứng, yêu tinh hoang mang khiếp sợ và bỏ lại một túi tiền Tông Ninh cho Quan Vũ. Tống Huy Tông nghe xong lập tức phong cho Quan Vũ làm Tông Ninh Chân Quân. Một tác giả khác là Vương Thế Trinh, người thời Minh, trong cuốn Long tử cầu hoạ Quan tướng quân tứ sự đồ cho biết vào năm Tống Chính Hoà, Quan Vũ đã đánh bại được Si Vưu và được Hoàng đế phong là Sùng Ninh Chân Quân. Cụ thể, lời văn cổ trong cuốn sách này như sau: “năm Tống Chính Hoà, cuộc chiến ở Diên Trì, Giải Châu, Sơn Tây thất bại (sau đó, nhờ sự giúp sức của thần tiên, Hoàng đế mới thu được thắng lợi – NTH), nhưng Hoàng đế vẫn nghi ngờ và chưa biết rõ thực hư, bèn phái Hư Tĩnh đi chứng thực, Hư Tĩnh báo lại: Chính một vị thần đã đánh bại Si Vưu. Hoàng đế lại hỏi: Ai đã đánh thắng? Hư Tĩnh đáp: Đó là Quan sư…, sau đó, Hoàng đế đã phong cho Quan Vũ làm Sùng Ninh Chân Quân.” [Dẫn theo [10, tr. 34-35]].

Từ đây, có thể nói rằng, cho đến cuối thời kì nhà Thanh, bất luận Quan Công là Đế Vương trong hư cấu của dân gian hay là bậc Chân Quân trong giới tiên gia, thì địa vị của ông đều đạt đến mức cao nhất trong lịch sử. Và đi kèm theo đó, là miếu thờ ông được xây dựng ở khắp mọi nơi. Theo khảo sát của học giả Lã Uy qua các thư tịch cổ, thời xưa trong thành thị luôn luôn tồn tại song song văn võ Nhị Thánh miếu, nhưng ở bất kì địa phương nào cũng chỉ được dựng một miếu Khổng Tử, còn miếu Quan Đế thì không hạn chế. Đặc biệt là ở vùng duyên hải sông Hoàng Hà là Sơn Tây và Hà Nam thì mật độ miếu Quan Đế nhiều vô cùng. [11, tr. 31]

Có miếu Quan Công, tất nhiên phải có thờ phụng cũng như các nghi thức tế lễ. Tế lễ được chia thành hai, là Dân tế và Quan tế. Lẽ dĩ nhiên, lễ tế của dân gian không thể nào so sánh với triều đình quan lại, nhưng trong dân gian lại luôn thể hiện sự đa dạng và lòng nhiệt thành đối với tín ngưỡng Quan Công. Còn quan tế là lễ tế quốc gia, với quy mô tương đối lớn và quy củ, đặc biệt là từ thời Tống trở về sau. Theo ghi chép từ sách Điển tế Quan Đế chí, thì ” vào những năm Minh Gia Tĩnh, định kinh thư điển tế, mỗi năm vào ngày 13 tháng 5 là ngày sinh của Quan Vũ, phải dâng vật tế là một con bò, một con dê, một con lợn, mâm ngũ quả, 1 tấm vải cẩm và phái quan Thái thường để hành lễ. Việc tế lễ 4 mùa cũng như cuối năm và việc phái quan đến tế, đều là việc quốc gia đại sự do quốc gia thông báo. Tế lễ bình thường thì cử quan hành lễ trước.” Đến cuối thời nhà Thanh, Hàm Phong năm thứ 3 (1853), chính thức liệt lễ tế Quan Đế vào hàng trung gọi là “trung tế” và khi tế phải cử hành theo đúng nghi thức ” 3 (lần) quỳ 9 lạy, nhạc lục tấu, múa bát điệu… ” [4].

Nói chung, sự sùng bái Quan Công đến cuối thời nhà Thanh đã đạt đến mức cực thịnh, đến nỗi nhà sử học đương thời là Triệu Dực trong tập thứ 35 “Quan Tráng Miêu” của sách Cai dư tùng khảo phải viết: ” phàm nhân trở thành thần sau khi chết, đại khái cũng phải mất vài trăm năm thì mới hiển linh và lâu dần được thay thế. Riêng Quan Tráng Miêu… Đến nay đền thờ thần trải dài từ nam chí bắc, phàm là phụ nữ và trẻ em không ai không run sợ trước uy linh của thần. Hương khói quanh năm, trường tồn bất hủ cùng với trời đất“. Là một nhà sử học, nhưng Triệu Dực cũng không thể lí giải được vấn đề này, đành phải thốt lên: ” Sự thịnh suy của quỷ thần sao lại nhiều đến thế!” [Dẫn theo [2, tr. 190]].

3. Tín ngưỡng thờ Quan Công của người Hoa ở Nghĩa An hội quán

Ở TP Hồ Chí Minh hiện nay, nơi thờ Quan Công có quy mô nhất là Nghĩa An hội quán ở quận 5 (hay còn gọi là chùa Ông) của người Triều Châu. Nơi đây, Quan Công được thờ ở gian giữa chánh điện. Theo hầu hai bên tả hữu có Quan Bình và Châu Xương. Theo truyền thống, người Hoa nói chung thường tổ chức ngày vía Quan Công vào các ngày 13 tháng 1 (vía Quan Công quy y tam bảo), 13 tháng 5 (vía sanh) và ngày 24 tháng 6 (vía hiển thánh) âm lịch hàng năm. Tuy nhiên, ở Nghĩa An hội quán, ngày lễ quan trọng nhất, tổ chức linh đình nhất đó là ngày 15 tháng 1 âm lịch. Đây thật sự là những ngày hội lớn đối với cộng đồng người Hoa nói chung và người Hoa Triều Châu nói riêng. Họ đến dâng hương nhằm tưởng nhớ và cầu mong Quan Công phù hộ độ trì cho sức khoẻ, hạnh phúc, làm ăn phát tài phát lộc, kinh doanh thuận lợi,…

Trình tự lễ vía Quan Công ở Nghĩa An hội quán thường diễn ra như sau:

1. Chuẩn bị: Trước khi lễ tế chính thức diễn ra khoảng hai tuần, các thành viên trong Ban quản trị hội quán sẽ nhóm họp để phân công nhiệm vụ, quyết định danh sách khách mời, nghe báo cáo về tình hình tài chính,… Sau đó, các thành viên được phân công theo đó mà thực hiện, nhưng chủ yếu vẫn là bộ phận phụ trách hành chính của hội quán. Cụ thể các công việc như sau: lên danh sách khách mời, đặt mua các lễ vật, quét dọn, trang trí hội quán, phân công các thành viên cấp dưới phụ trách hướng dẫn người dân đến tham gia lễ bái, giữ gìn an ninh trật tự,…

Theo lời kể của ông Vương Quốc Quang, trong các công việc trên, thì việc đặt mua các lễ vật là công phu nhất, bởi phải chọn những lễ vật đẹp nhất, những con heo quay tốt nhất… để cúng thần. Và hẳn nhiên, các cửa hàng uy tín, chất lượng của người Hoa luôn là lựa chọn hàng đầu của hội quán. 3

2. Lễ tế chính thức: đúng vào lúc 9g sáng, các thành viên Ban quản trị trong trang phục thường ngày, nhưng gọn gàng, tươm tất sẽ tập trung trước gian thờ Quan Công. Lễ vật dâng cúng thần thường có là: heo quay, vịt quay, cua, cá, mực, mì sợi, tiền – áo giấy, 3 chén trà, 3 chén rượu, trái cây, bánh bao, bánh quả đào,…

Trong không khí linh thiêng, trang trọng với những bản nhạc lễ truyền thống của người Triều Châu vang lên, Ban quản trị mà đứng đầu là Trưởng ban và hai Phó ban sẽ dâng lên thần những nén hương tốt nhất, thơm nhất với tư thế nghiêm trang, thành kính. Khi nhạc lễ kết thúc, buổi lễ sẽ chính thức bắt đầu. Thông thường, buổi lễ sẽ do một người là thành viên trong Ban quản trị điều hành và sẽ tiến hành theo những trình tự sau:

(1) Giới thiệu Trưởng Ban quản trị và 2 Phó ban làm chủ lễ.

(2) Dâng hương. Lúc này, tất cả mọi người sẽ hai tay cầm hương, nâng lên ngang đầu.

(3) Vái 3 vái và cắm nhang vào lư hương (việc cắm nhang sẽ có người giúp mang đi cắm). (4) Giới thiệu các lễ vật dâng thần. Giới thiệu đến lễ vật nào, trưởng ban và hai phó ban sẽ thay nhau nâng lễ vật đó lên và vái thần ba vái.

Hôm nay, ngày… tháng…. năm… Tại Nghĩa An hội quán Chúng con kính dâng lên thần: heo quay, vịt quay, hoa, bánh, trái,… Để cảm tạ ân đức của thần Cầu cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, cộng đồng thịnh vượng, bang hội đoàn kết tương trợ lẫn nhau, gia đạo an lành, con cháu hiếu thảo, học hành tấn tới, làm ăn phát đạt, buôn bán phát tài,…

(5) Ba thành viên ban chủ lễ quỳ xuống và một trong số họ sẽ là người đọc văn tế. Sau khi đọc xong, thì mang đi đốt. Nội dung văn tế thường có:

(6) Ba thành viên Ban chủ lễ sẽ dâng 3 chén rượu, 3 chén trà lên thần bằng cách rưới xuống đất.

(7) Thực hiện nghi thức “3 quỳ 9 lạy”, tức 1 lần quỳ sẽ lạy 3 lạy, sau đó đứng lên, rồi tiếp tục quỳ xuống, lạy thêm 3 lạy. Nghi thức này lặp đi lặp lại trong 3 lần, do Trưởng ban và 2 Phó ban thực hiện. Và sau đó là buổi lễ kết thúc. Lúc này, nhạc lễ sẽ lại tiếp tục vang lên rộn rã.

Tất cả những trình tự này, đều thực hiện theo sự điều khiển của người điều hành, bằng ngôn ngữ địa phương (Triều Châu), kể cả phần đọc văn tế.

3.

Kết thúc lễ: lễ dâng hương của Ban quản trị thường diễn ra trong khoảng 30 phút. Sau khi lễ hoàn tất, thì các lễ vật dâng thần sẽ được đưa xuống nhà bếp làm cơm. Còn Ban quản trị sẽ thay nhau tiếp đón quan khách, các hội quán bạn đến dâng hương, thăm viếng.

Ở Nghĩa An hội quán, không chỉ trong những ngày lễ quan trọng mà vào ngày thường, nơi đây cũng thu hút nhiều khách thập phương đến lễ bái với nhiều lễ vật phong phú, đặc biệt lễ vật kèm theo không thể thiếu là “Bộ áo giấy” cúng Quan Công. Bộ áo giấy, chỉ là cách gọi tắt, được bày bán sẵn ngay trước cổng và bên trong sân hội quán. Bộ áo này gồm có: 4 tờ tiền giấy, 1 tờ quý nhân, 1 tờ quý nhân bốn phương, 1 tờ tiền vàng, 1 tờ tiền bạc, 2 bộ áo Quan Công, 3 nén nhang, 2 cây nến. Tất cả đó được xếp ngăn nắp và đặt trên một cái mâm (hay khay) cũng làm bằng giấy. Sau khi dâng hương và lạy xong, thì mang đi hoá vàng. Nhưng có điều cần lưu ý, lễ vật cúng Quan Công, người ta thường kiêng cúng gà bởi vì ” gà là ân nhân của Quan Công: nhờ tiếng gà gáy sớm mà Quan Công thức dậy về với Lưu Bị”.

Ngoài ra vào dịp này, những người buôn bán cũng đến miếu xin vay tiền. Số tiền này sẽ được Ban quản trị trích từ nguồn quỹ của hội quán, cho vào phong bao màu đỏ (số tiền rất nhỏ, mang tính chất tượng trưng, tức khoảng 500 hoặc 1.000 đồng). Mỗi túi sẽ có hai phong bao, trong đó kèm theo thêm 2 quả quýt, 1 tờ tiền giấy quý nhân. Tất cả đó, được người dân gọi là: “Lộc thần”. Người nào muốn vay, sẽ đến dâng hương, cầu xin với thần, sau đó đến nơi Ban quản trị đã bố trí sẵn để thỉnh và mang về nhà. Thời gian vay là trong khoảng một năm hoặc sớm hơn. Đúng hẹn, người vay phải đến miếu trả nợ, lãi sòng phẳng bằng cách bỏ vào thùng công đức và số tiền là gấp đôi số đã vay, còn kèm theo lễ vật dâng cúng để tạ ơn thần.

Trong các hoạt động cầu tài nhân ngày vía của Quan Công, có thể nói đến đấu giá đèn lồng (thường diễn ra vào tối ngày 18 tháng 1 âm lịch), là hoạt động được mong đợi nhất bởi sự hấp dẫn và hồi hộp từ đầu cho đến cuối. Những chiếc đèn này, có năm Ban tổ chức đặt làm tại khu người Hoa ở Chợ Lớn, có năm đặt mua từ Trung Quốc mang về và giá khởi điểm cho việc đấu giá mỗi chiếc là 10 triệu đồng (giá đấu năm 2014).

Theo lời kể của ông Vương Quốc Quang, trước khi diễn ra hoạt động đấu giá khoảng 1 tuần, thư mời tham gia sẽ được chuyển đến tận tay những nhà hảo tâm, những đại diện của các hội quán bạn, những ông chủ của những tập đoàn giàu có,… và đa số là người Hoa 5. Sau khi đã hoàn tất mọi thủ tục, thì đúng vào lúc 20 giờ, tại hội quán, Ban tổ chức sẽ cho đấu giá 9 chiếc đèn lồng. Đây là 9 chiếc đèn tượng trưng cho 9 vị thần được thờ trong hội quán.

Trong suốt hoạt động đấu giá đèn lồng, ban tổ chức sẽ sử dụng song ngữ Việt và Hoa (phương ngữ Triều Châu). Tức là khi đấu giá, Ban tổ chức lần lượt giới thiệu bằng tiếng Việt trước, tiếng Hoa sau. Lần lượt, người chủ trì giới thiệu từng chiếc đèn từ số 1 đến số 9 bằng cách đọc tên những vị thần tượng trưng cho chiếc đèn đó, nếu ai thấy phù hợp với việc cầu xin của mình và trả giá cao nhất sẽ thắng.

– Đèn số 1: Thiên Địa Phụ Mẫu (天地父母)

– Đèn số 2: Mã Đầu Tướng Quân (马头将军)

– Đèn số 3: Phúc Đức Chánh Thần (福德正神)

– Đèn số 4: Văn Xương Tinh Quân (文昌星君)

– Đèn số 5: Tài Bạch Tinh Quân (财帛星君)

– Đèn số 6: Quan Bình Thái Tử (关平太子)

– Đèn số 7: Châu Xương Tướng Quân (周仓将军)

– Đèn số 8: Thiên Hậu Thánh Mẫu (天后圣母)

– Đèn số 9: Quan Thánh Đế Quân (关圣帝君)

Theo quan sát của chúng tôi trong hai năm 2013 và 2014, những chiếc đèn này đều được đấu thắng với giá hàng trăm triệu đồng. Riêng đèn số 9, là chiếc đèn được nhiều người quan tâm và đấu giá cao hơn cả. Như trong cuộc đấu giá năm 2013, giá chiếc đèn này là 668 triệu đồng, còn trong năm 2014, là 768 triệu đồng.

Nói chung, không khí cuộc đấu giá diễn ra rất sôi nổi, bởi những tiếng vỗ tay, tiếng trống giục và tiếng kêu gọi của người chủ trì. Khi một người nào đó đấu thắng, tên của họ sẽ được xướng lên, kèm theo đó là một hồi trống thắng lợi. Lúc này, bộ phận thư kí sẽ viết tên của người thắng dán lên chiếc đèn và mời một thành viên trong Ban quản trị hội quán lên trao. Cứ như thế từ đèn số 1 cho đến đèn số 9. Và cũng sẽ không có gì ngạc nhiên, khi tất cả những giá (tiền) của chiếc đèn mà những người tham gia đấu giá đưa ra, bao giờ cũng có số 6 hoặc số 8. Bởi người Hoa quan niệm rằng, số 6 là “Lục” gần với “Lộc”, còn số 8 là “Bát” gần với “Phát”. Như vậy, nếu số 6 và 8 kết hợp với nhau, sẽ là “Lộc Phát”.

Tục đấu giá đèn lồng ở Nghĩa An hội quán là một trong những tục lệ truyền thống của người Hoa Triều Châu. Mỗi năm chỉ tổ chức một lần với mục đích thu về kinh phí qua việc đấu giá để chi phí cho việc tổ chức lễ, tu sửa hội quán và làm công tác thiện nguyện. Vì thế, không chỉ có những người đấu giá thắng, mà những người tham gia khác cũng đóng góp thêm tuỳ lòng hảo tâm của mình. Theo thống kê sơ bộ của hội quán trong năm 2013 và 2014 sau khi đấu giá, số tiền thu được cũng xấp xỉ 4 tỉ đồng.

Ngoài hoạt động đấu giá đèn lồng ra, thì trong những ngày diễn ra lễ vía thần, tại sân hội quán còn tổ chức múa lân sư rồng và hát Tiều (vào buổi tối). Như trong năm 2014, Ban Quản trị hội quán đã mời hai đoàn ca kịch của tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc là Viện Văn nghệ chuyên nghiệp và Đoàn II – Viện Triều kịch biểu diễn trong nhiều đêm liền, thu hút đông đảo mọi tầng lớp người dân đến xem, thưởng lãm.

4. Kết luận

Quan Công, từ một võ tướng uy danh có thật trong lịch sử Trung Quốc, sau khi mất đã trở thành một vị “Đệ nhất Thần minh” 6 được cả tam giáo thờ phụng. Nho giáo lấy việc “Trung nghĩa hiếu hữu” 7 của đạo cương thường mà sùng bái, Phật giáo lấy việc “Hiển linh kiến tự” 8 mà kết duyên, còn Đạo giáo là “Giáng thần tĩnh yêu” 9 mà cầu giải. Cả tam giáo đã góp phần cùng nhau hình thành nên một hình tượng Quan Công “Trung quán nhật nguyệt”, “Nghĩa bạc vân thiên” 10 lừng lẫy trong lịch sử văn hoá Trung Hoa.

Tín ngưỡng Quan Công, không những được các vương triều tín cẩn, trở thành vị thần bảo hộ quốc gia, được dân gian Trung Quốc qua nhiều đời chiêm bái, mà còn theo chân các lưu dân người Hoa, lan rộng đến nhiều quốc gia trên khắp thế giới – trong đó có Việt Nam, trở thành một biểu tượng văn hoá, tượng trưng cho đạo đức truyền thống của người Trung Hoa.

Người Hoa tôn sùng Quan Công, như là một phương thức tồn tại đặc biệt của họ nơi đất khách quê người, cho dù ngày nay, sự tôn sùng ấy cũng như những hoạt động tế tự đã có phần tinh giản đi nhiều cho phù hợp với điều kiện mới và nơi vùng đất mới. Song, tất cả đó, vẫn không làm mất đi giá trị, bản sắc của tín ngưỡng thờ Quan Công, mà ngược lại, vẫn còn rất hưng thịnh.

2. Bản dịch từ http://vi.wikisource.org/wiki/Tam_qu%E1%BB%91c_di%E1%BB%85n_ngh%C4%A9a/H%E1%B B%93i_77 (truy cập lúc 23g10, ngày 7/5/2013).

3. Tư liệu phỏng vấn ông Vương Quốc Quang: phụ trách văn phòng hội quán và là người điều hành các buổi lễ ở hội quán, ngày 15 tháng 7 năm 2013.

4. Tư liệu phỏng vấn ông Vương Quốc Quang, ngày 15 tháng 7 năm 2013.

5. Tư liệu phỏng vấn ông Vương Quốc Quang, ngày 15 tháng 7 năm 2013.

6. Bậc thần minh không ai sánh kịp.

7. Đại ý: Hết lòng trung nghĩa, hiếu thuận, kính yêu mọi người.

8. Đại ý: Linh thiêng hiển hiện ra mà dựng lên thờ tự.

9. Đại ý: Thần xuất hiện dẹp trừ yêu quái.

THƯ MỤC THAM KHẢO

10. Đại ý: Lòng Trung thấu suốt trời trăng, Nghĩa khí che lấp mây trời.

1. Ô Bính An, Tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, NXB Nhân dân Thượng Hải, Thượng Hải, 1995.

乌丙安:《中国民间信仰》,上海:上海人民出版社,1995年。

2. Trương Chí Giang, Quan Công, NXB Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2008.

张志江:《关公》,北京:中国社会出版社,2008年。

3. Thẩm Hoằng, Văn hoá Quan Công, NXB Vật tư Trung Quốc, 2012.

沈泓:《关公文化》,中国物资出版社,2012年。

4. Người Trung Quốc vì sao tin Quan Công, bài viết đăng trên báo “Văn hoá Trung Quốc”. 《中 国人为何信关公》,《中国文化报》。 http://tieba.baidu.com/p/1914188230

5. Từ Tấn, Thần Tài, Thư xã Nhạc Lộc, Trường Sa, 2012.

徐迅:《财神》,长沙:岳簏书社,2012年。

6. Trần Thái Tiên, Nguồn gốc của các vị thần, NXB Hoa Kiều Trung Quốc, Bắc Kinh, 2011.

陈泰先:《神的由来》,北京:中国华侨出版社,2011年。

7. Mai Tranh Tranh, Giải mã Quan Công, NXB Dân chủ Pháp chế Trung Quốc, Bắc Kinh, 2010.

8. Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên), Đặc khảo văn hoá người Hoa ở Nam Bộ, NXB Văn hoá Dân tộc, 2012.

梅铮铮:《解码关公》,北京:中国民主法制出版社,2010年。

9. Từ Triệt, Trung Quốc bách thần tiên, NXB Khoa học kĩ thuật – Văn hiến Thượng Hải, Thượng Hải, 2008.

徐彻:《中国百神仙》,上海:上海科学技术文献出版社,2008年。

10. Lí Dược Trung, Thần Tài, NXB Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2009.

李跃忠:《财神》,北京:中国社会出版社,2009年。

11. Lã Uy, Tín ngưỡng thần Tài, NXB Học Uyển, Bắc Kinh, 1995.

吕威:《财神信仰》,北京:学苑出版社,1995年。

12. Hồ Tiểu Vĩ, Căn nguyên sùng bái Quan Công, (2 tập thượng, hạ), NXB Văn nghệ Bắc Nhạc, Thái Nguyên, 2009. 胡小伟:《关公崇拜溯源》(上,下册),太原:北岳文艺出版社,2009年。

13. Hồ Tiểu Vĩ, Đệ nhất thần minh (Quan Vũ), NXB Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2010.

胡小伟:《第一神明(关羽)》,北京:中国社会出版社,2010年。

14. Mạnh Tường Vinh, Vương Tề Châu, Võ thánh Quan Vũ, NXB Nhân dân Hồ Bắc, 2009.

孟祥荣、王齐洲:《武圣关羽》,湖北人民出版社,2009年。

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Tập Tục Tín Ngưỡng Trong Nghề Buôn Ở Hội An trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!