Đề Xuất 5/2023 # Nên Tụng Kinh Gì Vào Ngày Giỗ? # Top 12 Like | Herodota.com

Đề Xuất 5/2023 # Nên Tụng Kinh Gì Vào Ngày Giỗ? # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nên Tụng Kinh Gì Vào Ngày Giỗ? mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Ngày giỗ: Ý nghĩa tục lệ cổ xưa

Ngày giỗ còn gọi là húy nhật hay kỵ nhật, là ngày mất của một người tính theo âm lịch, là dịp để con cháu và người thân hàng năm tổ chức cúng cơm tưởng nhớ đến người đã khuất, đồng thời cùng nhau gặp mặt nhận họ nhận hàng và bàn bạc những công việc chung của gia đình, dòng họ.

Cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, được coi là việc báo hiếu, là ngày con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành, xây nền đắp móng của các bậc tổ tiên, và để cầu xin vong linh các bậc tiền bối phù hộ độ trì cho con cháu, cho gia đình, dòng họ.

3 ngày giỗ không thể quên dành cho các gia đình có người thân mới mất

Trong tục lệ cúng giỗ, căn cứ thời gian qua đời của người quá cố người ta lưu ý đến 3 ngày giỗ với những nghi thức khác nhau, đó là: Giỗ Đầu, Giỗ Hết và Giỗ Thường.

Ngày giỗ đầu:

Giỗ Đầu còn gọi là lễ Tiểu Tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây là thời gian còn nằm trong kỳ tang chế, nên ngày giỗ vẫn còn mang không khí buồn thảm, bi ai.

Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức rất trang nghiêm. Con cháu vẫn mặc đồ tang phục (ngày nay đa số chỉ đeo băng tang trên ngực), một số gia đình lúc tế lễ và khấn gia tiên, thân nhân của người quá cố vẫn khóc than, tạo không khí nhớ thương buồn thảm. Khách đến ăn giỗ luôn ăn mặc chỉnh tề, giữ thái độ trang nghiêm, không cười đùa hoặc có những cử chỉ thiếu sự nghiêm túc.

Ngày giỗ hết

Giỗ Hết còn gọi là lễ Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm. Theo tục lệ thì thời gian này cũng vẫn nằm trong kỳ tang chế nên người ta vẫn tổ chức lễ giỗ với nghi thức trang nghiêm.

Ngày giỗ hết được cho là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời, bởi nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Chính vì vậy Giỗ hết thường được tổ chức long trọng, con cháu, người thân thường có mặt đông đủ, khách mời dự cũng được mở rộng.

Sau lễ Giỗ Hết ba tháng (tức sau 27 tháng để tang người mất), người nhà sẽ chọn một ngày tốt để làm lễ Đoạn tang (hết tang). Lễ Đoạn tang còn gọi là lễ Đàm tế hay lễ Trừ phục (bỏ hết mọi đồ tang phục). Trong lễ này người ta làm ba việc chính sau đây:

– Sửa sang, đắp điếm cho mộ phần to đẹp thêm.

– Đốt hủy các thứ thuộc phần tang lễ như: khăn áo, băng tang, gậy chống, rèm sô, câu đối, trướng điếu…, bỏ bàn thờ vong để rước linh vị vào bàn thờ gia tiên.

– Cáo yết tổ tiên để xin cho rước bát hương vào bàn thờ gia tiên.

Sau khi làm lễ, người nhà đưa linh vị, di ảnh và bát hương thờ vong linh người quá cố vào thờ chung ở bàn thờ gia tiên theo thế thứ sắp đặt. Người ta cũng có thể lấy 3 chân nhang ở bát hương người quá cố cắm chung vào bát hương hội đồng ở bàn thờ gia tiên thay cho việc chuyển cả bát hương lên.

Sau lễ này người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám, vui chơi; người vợ có chồng chết có thể đi bước nữa.

Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người đã có những nhận thức mới, đa số đều thực hiện sau Giỗ Hết là bỏ tang chế. Đặc biệt, đối với những người chết được hỏa táng thì người ta cho rằng họ đã sớm được “sạch sẽ” nên lễ Đoạn tang sẽ tiến hành ngay sau Giỗ Hết chứ không phải chờ thêm 3 tháng nữa, thậm chí có gia đình ngay sau lễ Tốt Khốc (100 ngày) đã đưa di ảnh và chân hương lên thờ chung ở bàn thờ gia tiên.

Ngày giỗ thường

Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát kỵ, là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu mặc đồ thường phục, không còn mặc tang phục nữa.

Đây là dịp để con cháu sum họp vừa để tưởng nhớ người đã khuất, vừa vui vẻ nhận biết người thân, giới thiệu họ hàng, bàn những chuyện về gia đình, dòng họ. Thường thì ngày Cát kỵ được tổ chức nhỏ gọn hơn, chủ yếu trong phạm vi gia đình chứ không mời khách khứa rộng rãi như hai kỳ Giỗ Đầu và Giỗ Hết.

Ngày giỗ nên tụng kinh gì? Tụng như thế nào?

Đến ngày giỗ ông bà cha mẹ mà không đủ duyên hay không có điều kiện mời chư Tăng Ni tụng kinh siêu độ thì con cháu trong nhà nên tụng kinh để cầu nguyện, báo hiếu.

Thường thì vào đêm trước ngày giỗ, sau khi sắm lễ hương đèn hoa quả dâng cúng Phật và gia tiên, con cháu tập trung trước bàn thờ Phật tụng một biến kinh A Di Đà, theo như những chỉ dẫn của Nghi thức Cầu siêu trong kinh Nhật tụng. Bạn nên chọn kinh Nhật tụng tiếng Việt (tránh âm Hán-Việt) để vừa trì tụng và có thể hiểu nghĩa lý trong kinh.

Sang ngày hôm sau, đúng ngày giỗ, vào buổi trưa hoặc buổi tối, bạn sắm một mâm cỗ chay dâng cúng hương linh. Lễ phẩm thì tùy tâm, cốt là “lễ bạc mà lòng thành”, nên hạn chế đến thấp nhất rượu bia, vàng mã. Nếu không thuộc văn cúng, bạn có thể thành tâm khấn nguyện, rót nước, lễ lạy trước bàn thờ gia tiên thỉnh cầu chư hương linh thọ dụng, chứng minh cho sự hiếu thảo của con cháu là được.

Nếu các gia đình có thời gian thì trong ngày giỗ, tổ chức tụng kinh cầu siêu trước, kế đến cúng giỗ cùng trong một ngày lại càng hay.

Tamlinh.org (tổng hợp)

Nên Tụng Kinh Gì Trong Tháng Bảy Âm Lịch?

Tháng bảy âm lịch hằng năm chúng ta lại nô nức đón mừng mùa Vu Lan hiếu hạnh, không chỉ đối với những người Phật tử, mà hầu như tất cả người dân của dân tộc Việt Nam đều biết về dịp lễ Vu Lan, hay dân gian thường gọi là rằm tháng bảy.

Ngày tự tứ mùa Vu Lan trong Phật giáo

Tháng bảy âm lịch: Mùa Vu Lan báo hiếu

Những ngày tháng bảy âm lịch, nhà lại nhà, trên khắp nước Việt mình đều thành kính bước vào mùa Vu Lan, mùa báo hiếu. Tới ngày Rằm tháng bảy, bà, mẹ, chị dù bận đến đâu cũng cẩn trọng sắp mâm cỗ chay đủ đầy, thành kính dâng tặng tổ tiên, ban cho chúng sinh và chuyển đi thông điệp nhân văn của cuộc sống: Hãy nghĩ về Mẹ – Cha, mở lòng với đồng loại để thương yêu nhau nhiều hơn.

Những ngày này, chúng ta sẽ không lạ khi chứng kiến những hình ảnh đầy xúc động: dù già hay trẻ, trai hay gái dự lễ Vu Lan đều thành kính và ngập trong cảm xúc khi đón nhận một bông hoa hồng cài trang trọng lên ngực áo.

Khi mùa Vu Lan trở về, nơi nào có người con Phật, và nhất là trên mọi miền đất nước, những hình ảnh chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất… đều khởi sắc một mùa Vu lan báo hiếu. Đối với những ai có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tất cả đều có một cảm niệm chung, là nghĩ đến những phút giây chạnh lòng về công ơn trời biển của cha mẹ, âm thầm lắng nghe những tình tự nơi sâu kín của cõi lòng vô hạn, sự rung động ấy chính là Hiếu Tâm, Hiếu Hạnh. Vu Lan là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo.

Ý nghĩa ngày Rằm tháng Bảy – Lễ Vu Lan

Vu Lan Báo Hiếu là thể hiện nếp sống tốt đẹp của người học Phật. Hiếu là ý nghĩa của đạo đức, và cũng là phẩm chất của đời sống hạnh phúc và giác ngộ. Vu Lan không phải là một ngày lễ hội thông thường trên bình diện tín ngưỡng mà đó là một thông điệp nhắc nhở chúng ta biết tri ân và báo ân đối với cha mẹ, nhắc nhở chúng ta tu tập trong tinh thần tự lợi và lợi tha.

Theo tín ngưỡng dân gian, rằm tháng Bảy là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều tối) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.

Ngày hội Vu lan là ngày để người con Phật bày tỏ lòng hiếu thảo của mình, để thực hiện nghĩa cử tri ân báo ân đối với hai đấng sinh thành, đối với tổ tiên, ông bà, trải rộng lòng thương đến cả những vong linh cô hồn và cả những mảnh đời bất hạnh hiện đang còn sống. Đây là một ngày lễ hội rất có ý nghĩa, cần phải được bảo tồn và phát triển, phải làm sao để nó trở thành một ngày lễ hội của quần chúng, vượt qua giới hạn của tôn giáo, tín ngưỡng, để cho tinh thần hiếu đạo được thấm nhuần trong lòng mọi người, để cho con người trở nên thuần từ và trung hiếu hơn.

Mùa Vu Lan tháng bảy âm lịch nên tụng kinh gì?

Trong Phật giáo thì Kinh A Di Đà chính là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của các Phật tử ở các nước Châu Á, đặc biệt là ở Việt Nam.

Kinh A Di Đà là kinh khen ngợi công đức và được tất cả chư Phật hộ niệm. Kinh này chuyển tải nội dung rất sâu xa do đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự giảng nói. Nhận ra ý này nên Hòa Thượng Thích Trí Quảng nói: “Niệm Phật không phải là kêu Phật. Đa số người lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được.”

Danh hiệu A Di Đà Phật nói lên điều gì?

Pháp niệm A Di Đà là chỉ nơi tâm mà hành trì, chứ không qua trung gian phương tiện giúp chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Cõi tịnh độ của Phật A Di Đà được ẩn dụ cho sự vô thủy vô chung. Còn gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang, hay pháp giới tạng thân.

Danh từ Vô lượng, nếu miêu tả xét theo không gian, sẽ là Vô lượng quang; nếu trên cương vị thời gian, thì là Vô lượng thọ. Đấy là Pháp thân (Dharma – kàya). Pháp thân này là Báo thân (Sambhoga – kàya) nếu Phật được coi như là đức Phật “giáng hạ thế gian”. Nếu Ngài được coi như một Bồ Tát đang tiến lên Phật quả, thì Ngài là một vị Phật sẽ thành, như Bồ Tát Cần Khổ (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Nói cách chính xác hơn, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật, nghĩa là Vô lượng quang biểu tượng của trí tuệ giải thoát (Phật trí); Vô lượng thọ biểu tượng của đại định (tâm giải thoát), ở ngoài các vọng tưởng phân biệt. Ý nghĩa Vô lượng quang và Vô lượng thọ, và nhân cách giác ngộ của trí tuệ và từ bi vô cùng tận, tất cả chỉ giản dị là những giải thích về Vô lượng.

Tựa đề của Kinh Địa Tạng là “U minh Giáo chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát”. Có nghĩa là đấng giáo chủ cõi U minh là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát. Một Ngài Bồ tát tên Địa Tạng, Ngài cầm trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh, nếu chúng sinh chí thành niệm danh hiệu của Ngài. Tuy nhiên, đó có phải là ý nghĩa thực sự?

“Bổn” là Bổn tâm. “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa; chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi U minh, tức làm chủ cõi địa ngục tham, sân, si của chính mình.

Nguyện lực của Địa Tạng Vương

Địa ngục chính là địa ngục tham, sân, si. Chúng sinh khổ là do tham, sân, si đầy dẫy trong tâm, phiền não khởi phát. Muốn phá được cửa địa ngục này cần phải là Bổn Tôn Địa Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là bản thân nhận ra được bản tính Như Lai trong tâm, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham, sân, si và cứu giúp chúng sinh muôn loài.

Nếu ta hiểu Ngài Địa Tạng là một vị Bồ tát có hình tướng rõ ràng, và có một cõi địa ngục thật sự, thì chúng ta sẽ ỷ lại vào tha lực, rồi vô tình gạt bỏ quy luật nhân quả. Nếu thật sự có một Ngài Bồ tát đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần tụng kinh, tọa thiền hay tinh tấn tu học, chỉ cần một lòng cầu Ngài Bồ tát, chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu.

Như vậy thì tinh thần ỷ lại, dựa dẫm, mong chờ sự cứu rỗi của Ngài Bồ tát càng tăng lên. Quy luật Nhân Quả cũng không có ý nghĩa. Điều đó dẫn đến sự ra đời của Đức Phật cũng là vô nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải nỗ lực tu hành? Nếu chúng ta không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, thì có vị Bồ tát nào cứu vớt mình được? Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh tịnh chân tâm; khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm. Ngoài tâm sẽ không có cái gì cả.

Địa ngục chính là tham, sân, si, phiền não của chúng sinh. Địa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác, từ thân khẩu ý phát sinh ra. Địa ngục là sự tối tăm ám chướng, là sự mê muội trong tâm thức của mỗi người. Đó chính là địa ngục tự tâm.

Phật nói kinh Địa Tạng là muốn cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp bỏ tham sân si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp lành nơi tâm mình, rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâm và giải trừ vô minh tăm tối cũng nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với Bổn Tôn Địa Tạng của chính mình. Đó là nội dung cốt yếu của toàn bộ Kinh Địa Tạng.

Về phần chính văn trong Kinh Địa Tạng, khi đọc kỹ và hiểu theo nghĩa lý sâu mầu của Kinh, ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mới mẻ, mầu nhiệm. Khi hiểu rõ ý kinh, sự trì tụng mới đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng theo quỹ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường tà, vào mê tín, thì uổng một đời làm đệ tử của Đức Phật. Chúng ta là đệ tử Phật, tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình.

Kinh Vu Lan có thể được đọc tụng hàng ngày để hồi hướng công đức cho cha mẹ hiện tiền, đồng thời thắp sáng truyền thống hiếu đạo cho con cháu. Ngoài ra, nghi thức này có thể được sử dụng trong những dịp chúc mừng sinh nhật mẹ cha, chúc thọ cho ông bà và ngay cả các khóa lễ kỳ siêu cho cha mẹ quá cố và cửu huyền thất tổ. Thuật ngữ Vu Lan viết đủ là Vu Lan Bồn là từ dịch âm của người Trung Quốc về chữ Phạn “Ullambana”. Một dịch âm khác nữa là Ô Lam Ba Na, tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này lại không thông dụng trong giới Phật giáo.

Sự khác biệt giữa đức Bồ tát Địa Tạng Vương và Bồ Tát Mục Kiền Liên

Theo quan niệm thông thường, “ullambana” được ngài Trí Húc dịch nghĩa là “giải đảo huyền”, về sau được diễn dịch thành “giải đảo huyền, cứu thống khổ”. Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói, hay giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là “ngược” hay “dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời”, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là “treo”. Như vậy “giải đảo huyền” có nghĩa là “tháo bỏ các cực hình treo ngược của nghiệp xấu” và “cứu thống khổ” là cởi trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ.

Theo tinh thần của Kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sinh là bị sinh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.

Tụng Kinh Gì Cho Người Mới Mất? Cách Tụng?

Mình xin nhấn mạnh ở đây là mình là người trần mắt thịt, không biết gì. Mẹ mình bảo sao thì mình nói vậy. Và những gì mẹ mình nói là ông Hoàng chỉ dạy mẹ mình và cho phép nói thì mới được nói. Vậy nên ai tin thì làm theo, ai không tin thì cũng coi như không có duyên với nhau. Vì ở đây có người biết người không, người kiến thức cao siêu hơn mình nhiều nên mình không dám tranh cãi. Trong lòng mỗi người đều có Đạo của mình. Phật và Thánh cũng đã khác nhau rồi nên mình cũng không biết giải thích cho các bạn thế nào đâu ạ.

1. Lúc trước mình đọc Kinh gì tại nhà khi mẹ mình mới mất ?

“Bạn ơi! Trong vòng 49 ngày thì con cháu tụng Kinh gì cho người đã khuất? Và mình nghe nói là hàng ngày phải nhẩm trì chú gì nữa để hướng dẫn linh hồn đi đúng đường mà không nhầm đường xuống địa ngục nữa.”

Nói chung Kinh nào thì quan trọng nhất vẫn là tâm. Nếu tâm không sáng đọc trăm quyển kinh cũng vô dụng. Khi ấy vừa đọc tâm mình vừa mong mẹ được siêu thoát. Và kể cả sau này khi làm bất cứ việc thiện gì mình đều lẩm nhẩm khấn là tất cả công đức xin hồi hướng cho mẹ con.

2. Ai đọc Kinh cho người đã mất là tốt nhất ?

Đọc Kinh, nên là con trai, cháu trai, con dâu… đọc.

Con gái/ cháu gái đọc thì nên là chưa lấy chồng.

Tại vì sao? Mẹ mình bảo trên thiên tính rằng con gái lấy chồng thì theo phúc nhà chồng. Vậy nhà không có con trai và con gái lấy chồng hết rồi có đọc được không? Có. Chỉ cần thành tâm. Tuy nhiên khi ấy kết quả ko đc tốt nhất vì phần lớn phúc nhà chồng bạn sẽ hưởng, cha mẹ đẻ chỉ hưởng chút xíu thôi. Nên đợt ấy mẹ mình bảo mẹ mất sớm thì cũng thiệt thòi, nhưng lại may cái là mình còn ở nhà chưa đi lấy chồng, chứ không chưa chắc được như hôm nay. Bất công nhỉ, nhưng luật trên thiên là vậy rồi không biết làm sao ☹️

3. Siêu thoát là gì ? Siêu thoát đi đâu ? Đọc Kinh có siêu thoát được không ?

Có bạn hỏi mình là:

Thế nào là siêu thoát ?

Thoát rồi thì thoát vào đâu?

Lục đạo luân hồi thế nào?

Làm gì có chuyện chỉ đọc kinh là siêu thoát, thế thì cứ giết người rồi đọc Kinh là xong à?

Mình xin trả lời là mẹ mình, lúc đó được thoát không phải xuống ngục và có số đi hầu nên được ông Hoàng cho theo. Tuy nhiên đến gần đây, khi nhà mình làm lễ đoạn tang cho mẹ mình, mẹ mình bảo lúc ấy phải tạm dừng không theo ông Hoàng nữa, bị giam ở dưới âm chờ xét xử. Mặc dù 2 năm qua mẹ mình đi theo ông Hoàng và tích đức rất nhiều nhưng đến ngày đoạn tang vẫn phải xuống chờ xét xử. Ông Hoàng cũng không xin được.

Nói vậy để các bạn biết là đọc Kinh chỉ giúp nhẹ bớt đi, chứ ai tội nặng thì vẫn nặng, nhẹ thì vẫn nhẹ. Có những tội trên trần nghĩ là không phải tội xuống đấy cũng vẫn phải nghe xử. Như mẹ mình đang sống lăn ra đòi chết cũng là tội (mẹ mình bảo thế).

4. Nếu THIÊU thì hồn bay phách tán phải không ?

Nhà ngoại cảm Bích Hằng bảo rằng chôn thì luôn tìm thấy hồn nhưng thiêu khi thì thấy khi thì không bao giờ thấy, hồn bay phách tán là vì sao?

Nói thực là mẹ mình chưa bao giờ nói cho mình về chuyện hồn bay phách tán hay như nào nên mình không biết nó có thật không. Nhưng mà chôn thì như mình đã nói là ít thủ tục hơn thiêu, hồn luôn nhận được xác được mộ nên tất nhiên sẽ tìm thấy hồn. Còn thiêu thì nếu hồn không nhận được xác không về được mộ sao mà tìm thấy được.

Nhà ngoại cảm thì chỉ nhìn thấy và nghe thấy người âm nói thôi. Nhưng không phải người âm nào cũng biết được đúng quy trình đâu ạ. Mẹ mình tính ra cũng không phải người âm mà đang tu tập để được làm người thiên nên mới biết nhiều vậy.

6. Người chết cái gì cũng biết, làm gì có chuyện không gọi nhận xác thì không biết đâu là xác mình?

Mẹ mình bảo, ng mới chết như đứa trẻ con.

Đang trên trần xuống đấy lớ nga lớ ngớ. Thế mới có cái vụ ma cũ ma mới đấy ạ.

Bạn tưởng tượng đang lơ ngơ chưa biết mình chết xong vèo cái bị đuổi ra khỏi xác. Xong 1 đám người đem xác đi thiêu. Từ đầu mặt mũi chân tay đầy đủ nhìn cái là biết sau ra 1 hũ trắng bệch không nói sao người ta biết đấy là người ta. Xong vèo cái đi chôn thì làm sao giữa hàng ngàn ngôi mộ biết đâu là mình. Mất lâu rồi có thể là sẽ tìm được nhưng trong 49 ngày đầu không biết mộ ở đâu bơ vơ như người không nhà, người nhà có cúng gì cũng không được ăn thì có khổ không.

chúng tôi Chia sẻ từ Thùy Trang

Người Đang Ốm Đau Thì Tụng Kinh Gì Cho Lợi Lạc?

Nhiều người vẫn luôn thắc mắc khi ốm đau thì có thể tụng kinh gì để giảm bớt bệnh tật và lợi lạc? Theo Phật giáo tụng kinh Dược sư sẽ trị được tất cả các trọng bệnh phiền não về “Thân và Tâm”.

Chữa bệnh và chữa nghiệp

Phật Dược sư (Dược Sư Như Lai), tiếng Phạn gọi là Bhaisa-iya-guru Vaidurya-prabharajyah. Bản nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não về Thân và Tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau.

Chính vì bản nguyện thanh tịnh như vậy nên toàn thân Ngài hiển hiện ánh sáng trong suốt, thanh khiết (Lưu Ly Quang). Bởi vậy, tên gọi đầy đủ của Ngài là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai.

Theo Phật giáo, tất cả chư Phật, Bồ tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Với Phật Dược sư, thì theo Kinh Dược Sư Như Lai bản nguyện công đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo, phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh Lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với hai vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.

“Dược sư”, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Đức dược sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gia. Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Lưu ly quang (ánh sáng lưu ly) của Phật Dược Sư “trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Ngoài trị bệnh, Phật Dược sư còn quan tâm đến những kẻ nghèo khổ, khốn khó

Tuy vậy, ngoài việc chú ý trị bệnh, Phật Dược sư còn quan tâm đến những kẻ nghèo khổ, thiếu cơm ăn áo mặc, thiếu thốn phương tiện vật chất. Theo Kinh Dược sư, Phật Dược sư luôn hướng đến những bệnh nhân nghèo, mắc chứng nan y (điều nguyện thứ 7); Lo cho chúng sinh có đủ cơm ăn, áo mặc, vật dụng (điều nguyện 3,11 và 12); không để chúng sinh rơi vào tà đạo, ngoại đạo hoặc bị bùa chú ếm đối làm hại (điều nguyện 4,9); thương xót chúng sinh bị giam nhốt khổ sở trong ngục tù (điều nguyện thứ 10).

Ai hiểu được bản nguyện của Phật Dược sư thì cũng sẽ hiểu rằng: Tất cả những việc làm nhân đạo, từ thiện trên cuộc đời này đều nằm trên bản nguyện của Phật Dược sư. Theo giáo lý nhà Phật, không chỉ những người đang bị bệnh, mà bất kì ai phát tâm cũng có thể cầu nguyện Phật Dược sư và chắc chắn thành tựu.

Thực hành theo Đức Phật Dược sư là một pháp môn rất hiệu nghiệm để trị liệu cho bản thân và những người khác, và để chiến thắng những căn bệnh trong Tâm như tham trước, sân hận và si mê. Do vậy, dù tu Pháp môn nào, con người ta cũng có thể cầu nguyện Phật Dược sư để được ít bệnh ít khổ, là thuận duyên tu hành. Phép tu theo Phật Dược sư không đi ngược lại với luật Nhân – Quả chung của nhà Phật, mà hướng đến giải quyết Nghiệp chướng theo từng bước: Sám hối – niệm Phật-tu đối trị (Thấy việc mình làm sai, niệm Phật để răn mình, sửa chữa việc sai trong quá khứ, coi như gieo Nhân mới (ví dụ trước đây sát sinh, trước đây ăn cắp thì bây giờ bố thí).

Bởi thế, lòng từ bi của Đức Dược sư trải rộng đến cả những chúng sinh xấu ác. Ngài cứu cả chúng sinh bủn xỉn với cha mẹ, kẻ phạm giới, kẻ theo tà đạo, những chúng sinh đọa vào địa ngục, ngạ quỵ, súc sanh, chúng sinh đang hấp hối… Suy cho cùng, chưa có trường hợp nào Ngài không cứu.

Kinh Dược sư có nội dung vô cùng phong phú, nói về bản nguyện và công đức của Phật Dược sư. Theo Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong phần giới thiệu cho bản dịch Kinh Dược sư, có viết: “Kinh Dược sư là một quyển kinh mỏng nhưng có chiều sâu thăm thẳm. Đức Thích ca mà còn nói, một kiếp cũng chưa hết được thì làm sao chúng ta nói hết. Chẳng qua là giới thiệu, rồi mọi người phải tìm hiểu thêm”.

Theo đó, khi tụng Kinh Dược sư phải: Đọc tụng, suy tư, dạy người làm phúc. “Chúng ta hãy suy nghĩa nghĩa lý trong kinh để phát hiện thêm những điều màu nhiệm và ứng dụng những lời dạy của kinh để cứu giúp chúng sinh. Vững tin trên mỗi bước hành thiện luôn có nhiều Phật quang soi đường”, Hòa thượng Thích Trí Quảng viết.

Về công phu trì niệm hồng danh Đức Dược sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược sư Lưu ly Quang Phật hay Nam mô Dược sư Lưu ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược sư Kinh sám (Hòa thượng Trí Quang dịch), phần niệm Phật ghi rõ: Niệm Nam mô Dược sư Lưu ly Quang Phật. Các hành giả tu tập niệm danh hiệu Phật Dược sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt…và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.

Chỉ một phép tu đơn giản là trì niệm danh hiệu Đức Dược sư (Nam mô Dược sư Lưu ly Quang Vương Phật, ít nhất 108 lần mỗi ngày) là đã có các công dụng màu nhiệm, vừa chữa bệnh, vừa chữa nghiệp, cụ thể là:

1. Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí.

2. Diệt sư phạm tội mà được sự giữ giới.

3. Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát.

4. Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau.

5. Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác.

Ngoài ra, nhờ năng lực bản nguyện của Phật Dược sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.

12 đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai:

1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.

2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.

3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nới thân tâm.

4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo. hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.

5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.

6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thể thân thế hèn yếu hay xấu xa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp thì khôn ngoan.

7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành, quyến thuộc giúp đỡ cho đến chứng đạo Bồ đề.

8. Nguyện khi Ta thành Phật các nữ nhân thường bị khinh dễ thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhan, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.

9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ tát hạnh mau chứng đạo Bồ đề.

10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc, đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ…mà nghe tên ta thì đều thoát khỏi.

11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp giữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.

12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng thích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.

Thanh Tâm (Theo Dược sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức)

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nên Tụng Kinh Gì Vào Ngày Giỗ? trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!