Đề Xuất 3/2023 # Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ # Top 4 Like | Herodota.com

Đề Xuất 3/2023 # Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ # Top 4 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

print

Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam

(TRƯỜNG HỢP TÂY NAM BỘ)

Fx. Cao Dương Cảnh

Bất kì nền văn hóa, tôn giáo nào đi chăng nữa, các cột mốc trong đời người rất quan trọng. Các cột mốc này làm cho con người nhớ mãi các biến cố sự việc, lắm khi nó trở thành động lực để phát triển bản thân, gia đình và xã hội. Tùy mỗi nền văn hóa, tôn giáo mà có những nghi lễ về vòng đời khác nhau, nhưng tất cả đều có điểm chung đều quy về con người, đánh dấu các chặng đường con người trải qua. Ta không thể nói rằng nghi lễ này đẹp hơn nghi lễ kia, vì đối với nghi lễ không nghi lễ nào cao hơn nghi lễ nào, và nghi lễ chỉ là cách thức con người diễn tả ý nghĩa sâu sắc quan niệm về chính bản thân mình trong mối liên hệ với thế giới siêu nhiên.

Nếu ta không tìm hiểu kỹ nghi lễ vòng đời của từng văn hóa, tôn giáo, chắc chắn chúng ta sẽ có cái nhìn phiến diện, quy kết. Nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt Nam không chỉ là một nghi lễ, mà nó còn là một Bí tích. Thế nên việc tìm hiểu nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt Nam gắn với bí tích tôn giáo là một việc hết sức quan trọng. Đề tài tập trung chỉ ra:

Các nghi lễ vòng đời của người Công giáo, gắn với Bí tích tôn giáo.

Chỉ ra các tiếp nhận văn hóa Việt để diễn ta quan niệm về thế giới siêu nhiên với con người qua các nghi lễ của vòng đời.

Cách nghĩ của Công giáo về các giai đoạn của vòng đời

Nghi lễ với cuộc sống phôi thai

Theo quan niệm của người Việt Nam đôi hôn nhân không chỉ dừng lại ở chỗ, sống chung và xây dựng hạnh phúc  một cách chính thức về mặt pháp lí, văn hóa hay tôn giáo. Mà nó còn vươn lên cao và xa hơn đó là việc sinh sản. Việc sinh sản đó không phải là một ước muốn đơn thuần mà nó còn là bản năng để bảo tồn nòi giống.

Thế nên đối với những đôi hôn nhân khi tổ chức đám cưới, mọi người dân Việt nam không chỉ chúc đôi tân hôn đó “trăm năm hạnh phúc” mà còn kèm thêm câu “sớm sinh quý tử”. Như thế ta thấy nếu niềm vui của đôi tân hôn lấy nhau là niềm vui một, thì việc có con là niềm vui được tăng lên gấp bội.

Khi người nữ mang thai, người dân Việt dùng từ chỉ trường hợp này rất đẹp, đó là đã có “tin mừng” và họ cũng thường hỏi đôi vợ chồng sau vài tháng kết hôn, thế đã có “tin mừng” chưa. Câu hỏi này mặc định ý đã có con chưa.

Người Công giáo Việt Nam không chỉ nằm trong khung này, mà nó còn nâng việc sinh sản là một việc nghĩa vụ thiêng liêng. Sách giáo lí Hội thánh Công giáo số 2366 dạy “truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân” [12,662] và số 2367 nói “thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa” [12, 662], hay số 2378 “Đứa trẻ không phải là một của nợ, nhưng là một hồng ân”[12, 665]. Thế nên những đương sự nào bất lực[1]trước và vĩnh viễn khi kết hôn thì những cuộc hôn nhân đó vô hiệu về mặt bí tích.

Nếu quan niệm dân gian Việt nam chỉ quan tâm từ khi thời gian đậu thai, có nghĩa là thời gian phôi thai. Thì người Công giáo còn quan tâm xa và rộng hơn đó là việc trước khi hình thành phôi thai trong lòng người nữ. Giáo hội Công giáo lên án các trường hợp trực tiếp hay gián tiếp của y khoa để ngăn ngừa sự sống. Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm những phương pháp: thắt ống dẫn tinh, bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, , thuốc diệt tinh trùng…Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm những phương pháp : thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn, cấy tinh trùng vào tử cung… Giáo hội cũng lên án sựu can thiệp của “kỹ thuật sinh sản” [13,180] để “tách rời hành vi kết hợp vợ chồng ra khỏi hành vi sinh sản” [13,180], chẳng hạn: “gieo tinh” [13,180], “thụ tinh nhân tạo đồng nguồn” [13,180]. Vì xem kết quả “đứa trẻ đó được sinh ra là kết quả của một hành vi công nghệ hơn là kết quả tự nhên của một hành vi nhân linh” [13,180]

Nói thế không có nghĩa Công giáo bắt buộc các cuộc hôn nhân phải sinh sản một cách vô thức, không có trách nhiệm. Sách giáo lí số 2367 dạy rất rõ: “Nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái là sứ mạng riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ ấy, họ biết rằng mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm của một con người và của một Kitô hữu’’ [12, 662]. Thế nên sinh sản có trách nhiệm là một điều bắt buộc và là mục đích của hôn nhân Công giáo.

Công giáo mời gọi đôi hôn nhân ngừa thai một cách tự nhiên, số 2370 giáo lí Công giáo nói: “Tiết dục định kỳ cũng như những phƣơng pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai, đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính. Ngược lại, “mọi hành động nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh trước, hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong diễn tiến các hiệu quả tự nhiên của việc giao hợp, tự bản chất là xấu” [12, 663]. Giáo hội mời gọi có thể dựa vào “trật tự nhân học, người ta được phép vận dụng sự tiết dục định kì trong thời gian có thể mang thai của người phụ nữ.” [13,179]. Qua hai phương pháp giúp xác định ngày trứng rụng, cũng như xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ thai và những ngày nào không thể thụ thai. Đó là phương pháp Ogino-Knauss và phương pháp quan sát chất nhờn.

Không khác người Việt, người Công giáo Việt Nam cũng kiêng cử trong thời gian mang thai, lo cho sức khỏe và tinh thần của sản phụ hết sức chu đáo. Họ cũng kiêng cữ các món ăn, đi đứng, vị trí và cách ngồi, có thể gây hại cho thai nhi. Những điều này được gọi thai giáo. Những phụ nữ Công giáo mang thai thường treo ảnh các thánh, nhất là Đức mẹ, Thánh Giuse, hay Chúa Giesu để nhìn với quan niệm cầu mong con mình sẽ thánh thiện và xinh đẹp như các đấng họ tôn thờ. Việc cầu chúc của người Công giáo ngoài “mẹ tròn con vuông”, mà họ còn thêm câu “xin Chúa chúc lành, gìn giữ, bình an”

Sinh con là một khó, chăm sóc, giáo dục một đưa con lại càng khó hơn, và đây cũng là mục đích của hôn nhân Công Giáo đó là sinh sản và giáo dục luôn đi đôi với nhau.

    Từ hài nhi đến tuổi đi học

    Từ khi trẻ em sinh ra thì việc chăm sóc cho trẻ rất quan trọng, và người mẹ cũng không kém phần quan trọng. Dân gian cũng quan tâm đến việc đứa con son là trai hay gái. Đối với những người không có tư tưởng trọng nam thì nói: “Ruộng sâu nái không bằng con gái đầu lòng”, bởi vì con gái đầu lòng sẽ đỡ đần cho cha mẹ hơn con trai. Nhưng đối với những người có tư tưởng trọng nam thì bảo: “Nhất nam viết hữu, thập tử viết vô”. Thế nên những người không có tư tưởng trọng nam thường nói những người có tư tưởng trọng nam: “có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”. Đây cũng chính là quan điểm của Công giáo, dù gái hay trai thì vẫn là những đứa con của mình, một món quà Thiên Chúa ban tặng.

    Tín đồ Công giáo cũng cữ ngày thăm nôm sản phụ và đứa bé theo dân gian, thường sau khi sản phụ về nhà, mà tín đồ đến thăm sau 7 ngày đối với con trai, và 9 ngày đối với con gái. Sở dĩ được tính như vậy là vì quan niện theo mỗi con người đều hồn và vía. Tuy nhiên Công giáo lại không có cúng Bà Mụ nặn thành, vì quan niệm con cái là món qua Chúa ban chứ không phải do bà Mụ.

    Lễ thôi nôi (đầy tháng) còn gọi là lễ thử, lễ này người Công giáo cũng làm cho đứa trẻ, nhưng còn lồng ghép vào một nghi thức đó là thực hiện bí tích Rửa tội của người Công giáo. Trong ngày này không chỉ vui về mặt dân gian mà nó còn vui hơn khi đứa bé trở thành người Kito hữu qua sự bảo lãnh của cha mẹ. Ngày lễ này người Công giáo không chỉ mời tham dự lễ đầy tháng (thôi nôi) tại tư gia mà còn mời tham dự nghi lễ rửa tội cho đứa bé tại nhà thờ.  

    Các hình thức buổi lễ này cũng được người Công giáo còn giữ như là không thể thiếu trong đời sống dân gian, đó là việc đứa bé bốc đạo cụ trong mầm đã chuẩn bị sẵn. Người ta chuẩn bị sẵn các món đồ phù hợp với giới tính của đứa bé, chẳng hạn như giấy bút, đàn sáo, cung tên… dành cho bé trai, kim chỉ, dao kéo…. cho bé gái. Người ta tin rằng đây là hành động có giá trị thực tiễn, đoán định khuynh hướng phát triển của đứa bé. Tuy nhiên người Công giáo vẫn làm như trong tâm thức không tin vào mấy việc này, vì để biết được ước muốn khuynh hướng của một người không thể chỉ dựa vào việc lễ thử.

    Trong ngày này cũng bắt đầu công bố tên đứa bé là gì, đối với người Công giáo không chỉ có tên gọi họ và tên mà còn có tên thánh đứng trước tên đứa bé, chẳng hạn: Maria Nguyễn Thị Mai, Giuse Nguyễn Văn Lành…Công giáo cũng không quan trọng đứa bé mang họ cha hay họ mẹ, mang tên thánh nam hay nữ.

    Với tục bán khoán dân gian quan niệm để đứa bé đó được nuôi nấng dễ hơn dù đứa bé đó phát triển rất tốt về thể lý và trí não, hay những đứa bế cầu tự, hoặc hó nuôi, họ thường làm nghi lễ bán con thần thánh đối với nhưng người có niềm tion tin tôn giáo. Đối với không theo tôn giáo thường sợ ma quỷ quấy phá. Ngày xưa mỗi lần ẵn đứa bé ra khỏi nhà là bôi vết nhọ lễ trán hoặc thủ theo chiếc đũa hoặc cây kéo để bảo vệ vía. Thế nên việc bán khoán này rất chi tiết, đứa bé phải được một trăm ngày tuổi, chọn ngày lành tháng tốt, có thể mang lễ vật lên Chùa thực hiện nghi thức. Người Công giáo cũng có việc bán khoán này, tuy không hành lễ một cách chính thức, nhưng người tín đồ cũng dâng con cái mình cho Chúa, Đức mẹ gìn giữ.

    Dạy con là một việc không thể yếu trong đời sống hôn nhân, có thể nói việc thai giáo đã nói lên một phần nào tầm quan trọng của việc dạy con từ trong phối thai. Chẵng hạn người mẹ không được ăn cua vì đứa bé sẽ ngang như cua…

    Khi đứa bé bắt đầu lớn và bắt đầu vào những lớp học, thì bổn phận của cha mẹ Công giáo không chỉ dạy điều hay lẽ phải, kính trên nhường dưới, dạy từ cách đi, chách ăn, cách giao tiếp, mà quan trọng hơn hết dạy các em các câu kinh và giáo lí. Khi các em vào lớp hai ngoài trường thì các em đã được tham dự các lớp giáo lí trong tôn giao, các em sẽ được học song song các chương trình giáo lí cho đến khi các em hết chương trình lớp 12 ngoài đời. Trong thời gian này các em sẽ được chịu các Mình Thánh Chúa, Giải tội, Thêm sức, và xức dầu bệnh nhân (nếu có nguy tử). Như thế các em không chỉ được giáo dục về mặt tri trức hay còn được tiếp nhận các vấn về thuộc đạo đức cách sống tâm linh, mà ở đây mang dáng vóng luân lý Công giáo.

      Hôn nhân

      Quan niệm về hôn nhân

      Từ việc thông báo với rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Thế nên hôn nhân người Việt không chỉ là việc của cặp hôn nhân đó, mà còn là việc của gia đình, dòng họ, gia tộc. Các tiêu chí chọn người phối ngẫu cũng khác phức tạp phải môn đăng hộ đối, sự trinh khiết của người nữ, tam tòng tứ đức, lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống…Ngày hôm nay các đòi hỏi trên cũng nhẹ đi phần nào, nhưng đâu đó vẫn còn.

      Đối với người Công giáo hôn nhân không chỉ dừng lại việc thông báo với rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân của đôi bạn. Mà nó còn vươn lên sự kết hợp bất khả phân ly trong hôn nhân Công giáo, nó được nâng lên về mặt thiêng liêng, được gọi Bí tích.

      Trong Công đồng Vaticanô II văn kiện đã dành ra một chương khá lớn để nói về phẩm giá cao quý của hôn nhân và gia đình trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (“Vui mừng và Hi vọng”). Đặc biệt lưu tâm đến vấn đề truyền sinh, tình yêu, giáo dục.

      Bộ giáo luật 1983 ở điều 1053 quy định “giao ước hôn nhân” dành cho “một người nam và một người nữ” mục đích của hôn nhân “sinh sản” và “giáo dục con cái” và “chính Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn nhân giữ hai người đã được rửa tội lên hàng bí tích” [10,333]. Đặc tính hôn nhân Công giáo được điều 1504 chỉ rõ mang tính “đơn nhất” và “bất khả phân ly” [10,333]. “Sự đồng thuận của ý chí”, “chấp nhận nhau qua một giao ước bất khả thu hồi” [10,333] được điều 1057 nói đến. Điều 1141 cũng nói đến trường hợp tháo gỡ khi hôn nhân không thành sự theo giáo luật và lí do “tử vong” [3,353]. Điều 1059 nói rõ “Hôn nhân của những người Công giáo bị chi phối không chỉ luật Thiên Chúa mà còn luật của Giáo hội Công giáo nữa” [10,333]. Trong Giáo hội Công giáo có hai loại luật đó là luật Thiên Chúa và luật Hội thánh. Đối với luật Thiên Chúa là luật không bao giờ được thay đổi, còn luật Hội thánh có thể thay đổi.

      Nghi thức hôn nhân

      Ngày nay tục thách cưới, nạp cheo, mai mối mờ nhạc với các cuộc hôn nhân. Các nghi thức cũng được đơn giản hóa bởi các yếu tố khách quan và chủ quan. Nếu ngày xưa nghi lễ cổ truyền của người Việt gồm 6 lễ: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp tài, thỉnh kỳ, thân nghinh. Thì ngày hôm nay chỉ còn 2 lễ: nạp cát và thân nghinh nhằm đơn giản hóa các nghi lễ, thích nghi với cuộc sống hiện tại.

      Người Công giáo vẫn giữ các nghi thức truyền thống từ nạp cát đến thân nghinh. Các nghi thức rước dâu, vái lạy bàn thờ tổ tiên, dâng rượu cho ông bà mất, cũng nhưng các bậc còn sống. Các yếu tố mà người Công giáo lồng ghép vào trong các buổi lễ xuát giá hay đón dâu là các giờ kinh nguyện ngắm, cầu nguyện cho đôi hôn nhân. Nghi thức dân gian tại gia đình Công giáo có vẻ đơn giản hơn, qua các lạy bàn thờ, hay cửu quyền thất tổ. Lễ lại mặt sau ngày cưới cũng được người Việt Công giáo gìn giữ. Nhưng các yếu bố xem tuổi xem giờ cưới thì người Công giáo chính thống không bao giờ thực hiện.

      Ngoài việc chu toàn các lễ nghi truyền thống, người Công giáo còn phải lo trên hết là các phép tắc bên nhà đạo. Trước khi diễn ra các lễ truyền thống của hôn nhân, bên Công giáo thường hỏi ý kiến của đôi hôn nhân về vấn đề tôn giáo. Có chọn theo Công giáo hay “đạo ai người nấy giữ”. Nếu đôi hôn nhân đó đều là Công giáo hoặc một bên đồng ý theo, thì quy trình diễn ra như sau:

      Để chuẩn bị cho hôn nhân, người tín đồ đã phải chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn tức thì để học hỏi về bí tích hôn nhân. Giáo luật không ấn định thời gian chuẩn bị bao nhiêu là xa hay gần.

      Chuẩn bị xa là việc tín đồ học giáo lí từ nhỏ đã được giáo huấn về giá trị bí tích hôn nhân, hay qua các bài giảng của linh mục nói đến các vấn đề hôn nhân theo quan niệm của Kitô giáo. Giáo luật Điều 1063/1 nhắc nhở: “bằng việc giảng thuyết bằng việc huấn giáo thích hợp cho nhi đồng, thanh niên và người thành niên, và cùng bằng việc sủ dụng  các phương tịên truyền thông xã hội nhờ đó  các Kitô hữu đựoc giáo huấn về ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo và về vai trò của người phối ngẫu cũng như của các bậc cha mẹ Kitô giáo”. Thường tại giáo xứ ngoài các chương trình học về giáo lí căn bản, tín đồ còn được tham gia lớp giáo lí hôn nhân để chuẩn bị sau này khi kết hôn, sau khóa học được cấp chứng nhận đã hoàn thành lớp giáo lí hôn nhân.

      Chuẩn bị gần là việc chính tín đồ đã xác định đối phương và muốn cử hành bí tích hôn nhân. Cũng xin nói thêm theo quan niệm của Giáo hội Công giáo, riêng bí tích hôn phối này chính người tín đồ cử hành, linh mục chỉ là người chứng hôn thay mặt giáo hội. Việc chuẩn bị thường người tín đồ phải trải qua các bài học về gia đình, theo hướng dẫn của Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình thì việc chuẩn bị bao gồm việc giáo huấn về: “Những tương quan liên vị giữa người nam và người nữ trong chương trình của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình; Ý thức về sự tự do ưng thuận như là nền tảng của sự kết hợp đơn nhất và bất khả phân ly của hôn nhân; Khía cạnh nhân bản của tính dục hôn nhân, hành vi kết hợp vợ chồng; Khái niệm đúng đắn trách nhiệm cha mẹ; Những yêu cầu và mục đích, sự giáo dục con cái đúng đắn. Vào phần cuối của chuẩn bị gần này, đôi bạn cần biết những điều tốt đẹp của hôn nhân và cách sống giữa cộng đoàn, cũng như làm thế nào để “bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu sau này… làm thế nào để tránh những ‘khủng hoảng’ vợ chồng”.

      Chuẩn bị tức thì là việc cặp tín đồ tập thử các nghi thức sẽ diễn ra trong nghi thức bí tích, cách đi như thế nào, cách đọc kinh thánh ra sao và đặc biệt là việc đọc lời nguyện trao nhẫn và đoạn thề cùng nhau.

      Việc chuẩn bị trên giáo luật không ấn định là bao lâu, nhưng tùy theo giáo phận mà có thời gian ấn định riêng. Có những trường hợp khẩn cấp chẳng hạn: Đã lỡ có thai, phải kết hôn để bảo vệ danh dự; Có người thân như cha, mẹ, ông, bà sắp qua đời, phải cưới gấp để chạy tang; Bên lương đã định ngày kết hôn, do tin vào ngày tốt xấu. Lúc này dựa vào phân định của linh mục mà xử lí cách khôn ngoan nhất, vừa hợp giáo luật vừa thuận lòng đương sự. Nhưng phải xác định hôn phối có thực lòng yêu thương nhau, muốn tiến tới kết hôn, chứ không phải vì áp lực nào khác. Tiếp đến là khả năng trưởng thành nhân bản của mỗi bên, là có thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân. Trong trường hợp này, yêu cầu về hiểu biết giáo lý hôn nhân, có thể được giảm nhẹ.

      Thủ tục kết hôn của người tín đồ lần lượt qua các bước:

      Việc tiếp nhận hồ sơ và rao báo là việc đầu tiên thực hiện trong thủ tục này. Theo luật cũ, bên nữ sẽ là nơi tiếp nhận hồ sơ và nơi của hành bí tích Hôn phối. Nhưng với luật hiện hành bên nam hoặc bên nữ, đều được thụ lí hồ sơ nếu điều đó thuận tiện và được ưng thuận của đôi bạn trẻ.

      Nếu với cặp hôn phối bình thường (cả hai đều là Công giáo, hay một bên là tân tòng trước khi các bí tích theo luật định) thì giấy tờ cần:

      Giấy giới thiệu kết hôn

      Nếu trường hợp là người Công giáo thì linh mục chánh xứ có trách nhiệm gởi thông tin về cho linh mục chứng hôn xác nhận thời gian tín đồ cư trú. Cho biết là sơ khởi không thấy ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn nào, ít ra trong thời gian người kết hôn cư ngụ ở giáo xứ.

      Trường hợp đương sự là không phải là người công giáo, có thể là người lương hay người theo tôn giáo khác thì linh mục chánh xứ nơi đương sự đang cư ngụ, linh mục sở tại có thể giúp linh mục chứng hôn đó một số việc, chẳng hạn dạy giáo lí và rao hôn phối. Nhưng trong trường hợp này đương sự phải cung cấp cho linh mục sở tại hai loại giấy tờ: giấy chứng nhận độc thân và xác nhận cư trú của chính quyền thuộc ranh giới giáo xứ của linh mục sở tại.

      Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức

      Điều tất yếu phải có là giấy chứng nhận Rửa tội và thêm sức của tín đồ gửi cho linh mục chứng hôn. Thông tin phải ghi đầy đủ các chi tiết tên tuổi, thời gian (ngày, tháng, năm), giáo xứ, của nơi Rửa tội và Thêm Sức. Chứng thư Rửa tội phải không nên quá sáu tháng, để tránh sự thiếu cập nhật những tình trạng nhân thân, vì một số tình trạng nhân thân thay đổi như kết hôn, được giải gỡ hôn phối, chịu chức thánh, khấn dòng… được ghi chú vào sổ Rửa tội.

      Bản khai trước kết hôn

      Bản khai hay còn gọi là bản tra vấn kết hôn mà hiện nay vẫn thường làm. Bản khai cần có nội dung:

      Lý lịch ngắn gọn, nhưng cần có số điện thoại của người khai và thân nhân để có thể liên lạc, điều tra.

      Sự ý thức và chấp nhận tự do của đôi bạn về hôn nhân: bất khả phân ly, đơn nhất, sinh sản và giáo dục con cái.

      Liệt kê những ngăn trở tiêu hôn và ngăn trở bất hợp luật để đôi bạn xem xét và khai báo.

      Những hoàn cảnh có thể xảy ra khiến sự ưng thuận bị hà tỳ như: thiếu khả năng phán đoán hay tâm lý, bệnh tật, khả năng sinh sản, lầm lẫn, đặt điều kiện kết hôn…

      Người khai, vì vậy, không được giấu giếm những điều mà có thể gây lầm lẫn làm nhiễu loạn đời sống hôn nhân do: bệnh đồng tính, bệnh nan y, nghiện, vô sinh, có con riêng, nợ nần lớn, đang có quan hệ nam nữ với người khác. ..

      Giấy rao hôn phối

      Nguyên tắc rao hôn phối được đề cập ở Giáo luật Điều 1067: “Hội Đồng Giám mục phải ấn định những quy tắc về việc khảo hạch các đôi bạn, cũng như về việc rao hôn phối và về những phương thế thích hợp khác. Để thực hiện những cuộc điều tra, những việc đó là cần thiết trước khi cử hành hôn nhân; một khi những quy tắc ấy được tuân giữ cẩn thận, cha sở có thể tiến hành việc chứng hôn”.

      Hội đồng Giám mục Việt Nam ấn định: Hôn phối được rao ba lần, thường được rao vào ba Chúa nhật liên tiếp. Cha sở có quyền tha rao một lần, cha Quản hạt tha rao hai lần, và Bản quyền địa phương tha rao ba lần. Linh mục chứng hôn có trách nhiệm lập tờ rao gởi về giáo xứ một trong đôi bạn trẻ, các linh mục nhận tờ rao này phải thực hiện rao và trả kết quả về cho linh mục chứng hôn.

                 Chứng chỉ giáo lý hôn nhân

      Việc có chứng chỉ giáo lý hôn nhân nhằm minh chứng là đôi bạn trẻ này đã có bước chuẩn bị xa, gần. Việc cấp chứng chỉ thì nơi giáo xứ nào cấp cũng được, vì lí do mục vụ người tín đồ có thể bất kì ngôi nhà thờ nào thuộc giáo hội công giáo. Việc xác nhận lại chứng chỉ này có thực hay không, không thể thiếu trong yêu cầu này. Linh mục chứng hôn có thể khảo lại vài câu hỏi về bí tích Hôn nhân, hay trực tiếp điện thoại đến giáo xứ cấp chứng chỉ để xác minh, nếu ban đầu linh mục chứng hôn không gởi đương sự đi học.

      Giấy chứng nhận kết hôn dân sự

      Việc có giấy chứng nhận kết hôn dân sự không thể thiếu, nếu thiếu sẽ không thực hiện được bí tích. Giáo luật Điều 1071/2 quy định: “hôn nhân nào không thể hiện được công nhận hay không thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự”.

      Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn, nếu cần thiết

      Trong trường hợp có ngăn trở tiêu hôn như kết hôn dị giáo, có họ máu, có họ kết bạn… thì cần phải xin miễn chuẩn ngăn trở nơi Đấng Bản quyền địa phương. Nếu không có miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn, kết hôn vô hiệu.

      Đối với những trường hợp Giáo luật đòi xin phép, như thiếu giấy đăng ký kết hôn dân sự, kết hôn hỗn hợp… thì cần xin phép Đấng Bản Quyền địa phương để được hợp luật.

      Các đơn xin được miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn hay đơn xin phép kết hôn, không nhất thiết là phải gởi đến Giám Mục giáo phận. Có thể gởi đơn đến một trong các linh mục khác cũng có địa vị là Đấng Bản Quyền địa phương, như linh mục Tổng Đại diện, linh mục Đại diện Giám mục, hay linh mục nào khác được Giám mục ban quyền miễn chuẩn. Đơn xin ít nhất phải làm thành hai bản, để lưu Tòa Giám mục một bản.

      Miễn chuẩn được Giáo luật Điều 85 định nghĩa: “Miễn chuẩn, hay là sự nới lỏng một luật thuần tuý Giáo hội trong một trường hợp đặc biệt, có thể được ban do những người có quyền hành pháp, trong giới hạn thẩm quyền của mình, cũng như do những người minh nhiên hay mặc nhiên có quyền miễn chuẩn, hoặc do chính luật, hoặc do một sự uỷ quyền hợp pháp.” Có nghĩa nếu gặp trường hợp này thì tín đồ phải xin miễn chuẩn của giáo quyền qua giám mục địa phương , theo ngôn ngữ của tín đồ gọi là “đạo ai người nấy giữ”.

      Giáo luật, huấn quyền đã chỉ dẫn, nếu tín đồ làm trái luật thì bị phạt rất nặng, dẫn đến tình trạng “bị rối”. Không chỉ đương sự bị phạt vạ mà ngay cả những đương sự tham sự, nhưng việc phạt này tùy vào mỗi giáo phận, mà giám mục có những nguyên tắc và quy định của những cuộc hôn nhân này.

      Tu trì

      Đối tượng nhận bí tích này là người nam đã được Rửa Tội, các chức thánh là chức Giám mục, chức linh mục và chức phó tế.

      Hiện tại Giáo hội Công giáo có hai cách sống dành cho linh mục, gọi là linh mục triều hay dòng.

      Linh mục triều (secular priests), phục vụ trong các giáo xứ, ở giữa dân chúng hay “giữa thế gian” (theo tiếng Latin, thế giới là “saeculum”), còn được gọi là các linh  mục giáo phận (diocesan priests), “nhập tịch” vào giáo phận, trực thuộc giáo phận, trực tiếp dưới quyền Giám mục giáo phận, vâng lời và thi hành chức vụ linh mục, đảm nhận những công tác do Giám mục chỉ định. Thông thường, các linh mục triều hoạt động trong địa hạt Giáo phận của mình.

      Linh mục quản xứ tại giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm là linh mục triều, trực thuộc Giáo phận Long Xuyên, do giám mục Giuse Trần Văn Toản lãnh đạo.

      Linh mục dòng hội nhập vào các dòng tu, là tu sĩ, phần tử của các dòng tu, tuyên giữ lời khấn dòng (khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời bề trên), trực tiếp vâng lời bề trên dòng trong mọi sự việc và đảm nhận những công tác do bề trên chỉ định. Các công việc của các linh mục dòng tùy thuộc đoàn sủng mỗi dòng (gọi là Linh Đạo Dòng). Họ có thể thi hành những việc về phụng vụ, quản trị, mục vụ, truyền giáo, giáo dục, xã hội, y tế, nghệ thuật, truyền thông, lao động… Các linh mục dòng có thể được gửi đi hoạt động bất cứ nơi nào nhà dòng được phép hoạt động,  cũng được bề trên gửi đến các Giáo phận để phục vụ như các linh mục triều và trong khi phục vụ khó phân biệt họ với linh mục triều.

      Người chuẩn nhận hay nhận bí tích Chức thánh điều là những người nam độc thân, Luật độc thân có từ lâu trong truyền thống Giáo hội Công giáo. Ngày nay đang đặt lại vấn đề này vì xét về mặt khách quan những tín đồ theo đuổi nhận bí tích ngày càng ít, nhất là những nước phương Tây và một điều chẳng hay gì, mà Giáo hội Công giáo đang đối đầu là việc giáo sĩ lạm dụng tình dục. Nhưng trên phương diện chủ quan Giáo hội Công giáo vẫn chưa bỏ luật này đối với những tiến chức theo nghi lễ Tây phương.

      Người nữ không tham gia vào bí tích này, việc người nữ cũng khấn dòng (nữ tu) hay cũng có tiến trình đào tạo giống như những người nam (dù thời gian nhanh hơn) nhưng không được tham gia vào bí tích này.

       Việc giáo xứ hay gia đình có người nhận bí tích chức thánh hay đi tu làm nữ tu là niềm vinh dự cho đương sự, gia đình và giáo xứ. Đối với người tin đồ đó là hoa trái thiêng liêng, và là một ơn gọi Chúa dành riêng. Được tín đồ quan niệm thiêng liêng hơn lập gia đình.

        Lên lão

        Các từ bô lão, ra lão, vào lão, lên bô, sửa nóc nhà đều có ý nghĩa ngang nhau với lên lão. Theo truyền thống dân gian lên lão là cột mốc đánh dấu con người đầy phúc đức, có thế giá về mặt xã hội. Bên cạnh đó giải phóng khỏi trách nhiệm nặng nề, hưởng phước qua đàn con cháu. Tùy vùng mà có những quy định về độ tuổi riêng, chẳng hạn: một số làng ở Bắc Ninh là 55 tuổi, các làng ở Hà Nội xưa là 50 tuổi.. Quy chung lại độ tuổi lên lão thường 60 tuổi. Các lễ mừng thọ ông bà con chau chuẩn bị rất chu đáo chỉnh tề, bằng nhiều hoạt động nghi lễ thể hiện tinh thần đạo hiếu sâu sắc.

        Đối với tín đồ Công giáo lên lão không chỉ thể hiện bao nhiêu đó, mà nó còn gắng với đời sống tôn giáo một cách sâu sắc. Tuy không có quy định về độ tuổi lên lão nhưng khi các tín đồ về già, thì được chăm sóc rất đặc biệt về đời sống thế tục cũng như tôn giáo.

        Theo quan niệm Công giáo tuổi lên lão là tuổi được Thiên Chúa ban ân huệ đặc biệt cho người công chính, phản ánh sự khôn ngoan, được Thiên Chúa chăm sóc một cách đặc biệt, và Thiên Chúa muốn mọi người con cái chăm sóc các cụ một cách đặc biệt.

        Trong thời gian này các cụ không chỉ được chăm sóc bằng đời sống thế tục như về sức khỏe thể lí, như: về dinh dưỡng, ăn mặc cư trú, giải trí thể thao, chữa trị bệnh tật… Mà còn về đời sống tôn giáo, như: tạo điều kiện các cụ cầu nguyện tốt nhất, cho các cụ tham gia vào các hội bô lão của Công giáo nhằm giúp cho các cụ ít chán nản và suy nghĩ tiêu cực về tuổi già mất giá trị, đặc biệt liệu sao lo cho các cụ về vấn đề các bí tích cuối cùng trước khi mất, đó là bí tích xức dầu bệnh nhân.

        Xức dầu bệnh nhân được giáo luật điều 998: “Qua bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Giáo Hội phó thác những tín hữu bệnh tật hiểm nghèo cho Chúa chịu nạn và vinh quang để Người nâng đỡ và cứu chữa họ; bí tích này được ban bằng việc xức dầu trên bệnh nhân và đọc những lời đã được quy định trong sách phụng vụ”. [10, 317]

        Đối tượng tín đồ nhận bí tích này không phân biệt lớn hay nhỏ, chỉ cần thỏa điều kiện là tín đồ đã rửa tội. Bởi thế thời gian thích hợp để lãnh nhận khi người tín hữu bắt đầu đau nặng hay nguy tử vì bệnh tật hay già yếu. Trong cùng một cơn bệnh, có thể lãnh nhận bí tích này nhiều lần, cứ mỗi lần trở nặng. Trước khi chịu đại phẫu, hoặc người lớn tuổi, suy yếu cũng nên lãnh nhận bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Không ban bí tích này cho người lương và những tín đồ mặc nhiên công khai từ bỏ đức tin. Giáo luật Điều 1007: “Không được ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho những người cố chấp sống trong tội trọng công khai.” [10, 319]. Việc không nhận bí tích trước khi lâm chung, tín đồ quan niệm chết không lành, bởi thế trước cơn nguy tử tín đồ thường gặp linh mục để xin ban bí tích này.

          Tiễn đưa

          Quan niệm về cái chết

          Đã là người ai cũng phải chết, cái chết không từ một ai. Theo quan niệm dân gian Việt cái chết là một cõi đi về thế giới bên kia – cõi âm. Người Việt dùng từ “về” để chỉ ra quan niệm về cái chết là một sự chuyển bước, từ một kiếp sống này sang kiếp sống khác. Bên cạnh đó người Việt quan niệm về kiếp này sẽ quyết định kiếp sau, tùy vào phúc đức kiếp này để lại.

          Công giáo quan niệm cái chết đã vào trần gian vì con người đã phạm tội, và chỉ nhờ được cái chết và sự sống lại của Chúa Giê su mới đem cho con người sự sống đời đời. Cái chết của người Công giáo là một sự thất bại những cũng là một sự chiến thắng. Thật thế người tín đồ Công giáo luôn ý thức về cái chết, xem cái chết giống như người Việt là một cuộc trở về với cái gốc. Cái gốc của người Công giáo ở đây là Thiên Chúa.

          Tín đồ Công giáo tin xác loài người sau sẽ phục sinh, cuộc sống trên trần gian là một cuộc hành về nhà Chúa, thuộc giáo hội lữ hành. Người Công giáo tin rằng sau cái chết sẽ là một cuộc phán xét riêng, sách giáo lí hội thánh Công giáo số 1022 dạy: “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện”. Bên cạnh đó tin có cuộc phán chung qua ngày tận thế, được diễn ra ngay sau khi mọi người đã chết được sống lại, người công chính cũng như người có tội, giáo lí số 1040 đã đề cập: “Phán xét chung sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Người quyết định khi nào sự kiện này sẽ xảy ra….”

          Sau cái chết người Công giáo quan niệm có ba tình trạng: trước tiên là luyện ngục là tình trạng tín đồ chết trong ơn nghĩa với Chúa qua việc kết hợp mật thiếu trong đời sống tôn giáo, nhưng còn thiếu xót một số lỗi nhỏ, thế nên cần một thời gian thanh luyện để được hưởng thiên đàng. Thiên đàng là tình trạng tín đồ trước khi chết sống đúng luật Chúa và hội thánh, mà không bị vướn mắc các lỗi dù là nhỏ hay trải qua thời gian thanh luyện (luyện ngục) sẽ được hưởng thiên đàng. Tình trạng này là tình trạng viễn mãn đời đời không tái chuyển luân hồi. Hỏa ngục là một tình trạng dành cho tín đồ khi sống dứt khoát tự loại trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh, tình trạng này được diễn khóc lóc nghiến răng, thiêu đốt bằng lửa, hình phạt đầy đau khổ.

          Từ các tình trạng sau chết người Công giáo quan niệm về sự hiệp thông trong giáo hội. Giáo hội lữ hành dành cho các tín đồ còn sống, giáo hội đền tội dành cho các tín đồ đã chết (luyện ngục hay hỏa ngục), giáo hội khải hoàn. Trong mầu nhiệm hiệp thông Công giáo tin rằng các giáo hội này có mối liên hệ với nhau. Các tín hữu còn sống có thể cầu nguyện, làm việc phúc đức, tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các tín đồ đã chết đang ở luyện ngục. Các tín đồ được lên thiên đàng hay đền tội ở luyện ngục xong được lên thiên đàng cầu nguyện cho các tín đồ còn sống cũng như đang ở luyện ngục. Các tín đồ đã chết không còn cơ hội tạo công đức nữa, phù thuộc hoàn toàn vào lời cầu nguyện của tín đồ còn sống và các thánh. Người Công giáo quan niệm tất cả ơn ban chết sống đều do Thiên Chúa ban phát, còn tín đồ các thánh chỉ là cầu xin chuyển cầu.

          Nghi lễ cơ bản trong tang chế

          Lễ mộc dục: Nếu dân gian Việt khi diễn ra lễ này chuẩn bị con dao nhỏ, một vuông vải, một cái lược, cái thìa, một ít đất ở ông đầu rau, một nồi nước ngũ vị hương, và nồi nước nóng. Sau khi tắm gội cho xác người chết xong, đắp chăn hay giăng màn, đặt cúng cơm, và dùng dao để trên bụng để trừ tà. Thì đối với người Công giáo cũng diễn ra lễ mộc dục này, nhưng loại bỏ tất cả các nghi thức này, thay vào đó chỉ tắm rửa sạch cho người quá cố. Vẫn giăng màn hay đắp chăn cho người quá cố, không đặt dao hay vật gì trên bụng người mất, họ có thể để tay cầm thánh giá hay tràng chuỗi mân côi, trước đầu nằm thì để cây thánh giá thay cho các bát cơm.

          Lễ phạn hàm: lễ này là việc dùng gạo và muối bỏ vào miệng người chết, nhà nào giàu có thể bỏ vàng hay tiền. Việc này xãy ra nhầm để tránh các việc nhập tràng. Sau đó thực hiện nghi lễ nhập quan. Người Công giáo vẫn thực thiện nghi lễ nhập quan qua một nghi thức cầu nguyện. Không bỏ vào miệng người chết bắt kì vật gì. Sau khi nhập quan xong vị trí quan tài được đặt chính giữ nhà.

          Lễ thiết linh: là lễ thiết lập linh vị đặt bàn thờ tang. Vị trí đặt bàn thờ này người Công giáo cũng đặt giống người Việt đặt trước đầu quan tài. Nếu trước công đồng Vatican II thì người Công giáo không có di ảnh, nhang, đèn, hoa qua, thánh giá, nước thánh. Thì sau công đồng Vatican II đã có những vật này, thể hiện tinh thần hội nhập văn hóa.

          Lễ thành phục, phát tang: là việc phát tang cho những người thuộc gia đình người quá cố, tuy theo vị thế đối với người quá cố mà có những quy định riêng. Người Công giáo cũng có nghi lễ này, có nghi thức riêng cho việc phát tang. Sau khi an táng người Công giáo có thể xả tang ngay lập tức hay mang tang 49 ngày, 100 ngày hay một năm, hoặc cả đời. Người Công giáo thay chiếc tang sau an táng bằng chiếc khuây màu đen, có một số trường hợp mang tang đến nhà thờ tham dự thánh lễ.

          Phúng điếu: là việc tinh thân hiệp thông sâu sắc, ngoài các vòng hoa, nhang, đèn hoa quả, tiền của… người Công giáo còn cái tinh thần hiệp thông khác là việc tập hợp lại cầu nguyện qua các giờ kinh. Vị thế của người quá cố này như thế nào đối với cộng đồng tôn giáo thì số lượng phúng điếu hiệp thông cầu nguyện càng nhiều. Bên cạnh đó cũng có bảng cáo phó về thời gian chôn cất để người còn sống sắp xếp phúng điếu. Trong bảng cáo phó này có một chút thay đổi, ngoài các thông tin về ngầy giờ mất, nhập quan động quan. Thì có thêm một số thông tin sau: tên thánh của người quá cố, các giờ các hội đoàn đến cầu nguyện, giờ lễ… Người Công giáo dùng các câu kinh thánh để thay thế cho các câu đối dân gian, chẳng hạn: “Khi chết đi là vui sống muôn đời” – lời kinh hòa bình, hay “Ta là đường là sự thật và là sự sống”… thể hiện quan niệm về cái chết của Công giáo, một niềm hi vọng.

          Cất đám: là việc người sống đem người mất an táng vào lòng đất hay thiêu. Người Công giáo thay việc đọc văn tế bằng Thánh lễ tại nhà thờ, đối với Công giáo điều tốt lành nhất cuối đời là được thánh lễ cuối cùng tại nhà thờ. Sau khi thánh lễ diễn ra xong người tín đồ di chuyển quan tai ra đất thánh, nơi này chôn tập trung các tín đồ đã mất trong giáo xứ. Đối với những trường hợp xa nhà thờ không thể đến nhà thờ được hoặc nhà thờ không có đất thánh thì linh mục sẽ đến trực tiếp nhà tang lễ dâng thánh lễ. Về thứ tự của đoàn đưa tiễn cũng phân theo hội đoàn, gia đình tang quyến, các người tham dự khác, 2 vị trí đặc biệt là linh cữu và nơi dâng thánh lễ. Trước khi hạ nguyệt vẫn có nghi thức làm phép nguyệt, sau khi hạ nguyệt mỗi tín đồ lấy một nắm đất thả vào nguyệt, nói lên ý nghãi, kiếp bụi tro sẽ trở về tro bụi. Việc xây đắp thành mộ, trên ngôi mộ vẫn khắc ghi họ và tên ngày mất của người quá cố, đặc biệt là tên thánh. Trên mộ có một cây thánh giá, hay các thiên thần bảo vệ…

          Nghi lễ cơ bản sau tang lễ

          Lễ cúng tế ngu: việc này chưa có thẻ thống nhất, có nơi tính 3 ngày từ khi ngày mất của người quá cố, có nơi tính 3 ngày sau ngày chôn cất.  Theo tục là mở cửa mổ mả. Người Công giáo thì không có mở cửa mả vì quan niệm khi chết chỉ thuộc 3 tình trạng (hỏa ngục, luyện ngục, thiên đàng) không về dân gian nữa. Thế nên người Công giáo thay 3 ngày này bằng việc đến tư gia gia quyến đọc kinh cậu nguyện cho người mất, thể hiện tinh thần hiệp thông.

          Lễ cúng chung thất: là lễ sau 49 ngày, tùy vào nghiệp mà có thể đầu thai luân hồi. Người Công giáo vẫn giữ ngày này nhưng không quan niệm về việc đi đầu thai, họ vẫn tổ chức các cuộc đọc kinh cầu nguyện.

          Lễ cúng cơm 100 ngày: người Công giáo không quan niệm người mất có thể dùng cơm như người bình thường, thế nên họ không cúng cơm. Trong ngày này họ có thể đọc kinh cầu nguyện và thực hiện nghi thức xả tang.

          Ngày cúng giỗ: có 3 loại lễ giỗ là lễ tiểu tường (lễ đầu tiên sau 1 năm mất) và lễ đại tường (là lẽ thứ 2 sau ngày mất, còn gọi là giỗ hết) và lễ cuối lễ Đàm (là việc đưa bàn thờ phụ đang thờ người mất sang bàn thờ chính). Đối với người Công giáo vẫn tổ chức các lễ giỗ hằng năm, nhưng không có quy định bao nhiêu năm mới được di dời bàn thờ, mà nó phụ thuộc vào điều kiện của mỗi gia đình. Nhưng điểm chung ở đây dù lễ giỗ bao nhiêu năm thì người Công giáo vẫn đọc kinh cầu nguyện cho người quá cố trong tinh thần hiệp thông. Vẫn tổ chức các bữa tiện ăn, để kỉ niệm ngày mất, nhưng không cúng đồ ăn cho người quá cố.

            Lễ tiết

            Lễ tiết là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Việt nam. Nó bao gồm các nghi lễ, lễ hội theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Lễ tiết thuộc bộ phận văn hóa tinh thần. Các ngày lễ tiết trong năm gồm có một số lễ: Tết nguyên đán, tết thanh minh, ngày Phật đản, tết đoan ngọ, lễ thất tịch, tết trung nguyên, tết trung thu, tết trùng cửu, tết trùng thập. Trong các lễ vừa đề cập, người Công giáo chỉ tiếp nhận 3 lễ tết sau:

            Tết nguyên đán

            Đây là ngày lễ đầu năm của người Đông á, trong đó có Việt nam. Không thể xác định người việt bắt đầu ăn lễ tết nguyên đán từ khi nào, nhưng có thể chắc chắn một điều lễ tiết đã có từ xưa, cũng nhu ảnh hưởng từ phương Bắc.

            Lễ tết nguyên đán được thổi lửa khi lễ tết táo quân kết thuc, lúc này nhà nhà bắt đầu sửa sang lại nhà cửa, lau chùi, chuẩn bị ăn tết. Bận rộn nhất là 28, 29 và 30 (nếu có) giết mổ con vật để chuẩn bị cho 3 ngày tết nguyên đán.

            Người Công giáo Việt Nam không nằm ngoài lễ tết này. Nếu đêm 30 dân gian đón ông bà thì người Công giáo có một thánh lễ cuối năm. Ngày mùng 1 nếu dân gian làm cổ cúng gia tiên, cúng thổ công thì Công giáo có thánh lễ đầu năm tạ ơn Thiên Chúa. Trong ngày này người Công giáo cũng hái lộc, nhưng lộc ở đây là những câu kinh thánh ngắn gọn, để tín đồ sống một năm. Ngày mùng 2 người Công giáo dành riêng để kính nhớ tổ tiên, qua các Thánh lễ được cử hành, đặc biệt là tại đất thánh. Ngày mùng 3 người Công giáo tiếp tục dâng thánh lễ để cầu nguyện cho công ăn việc làm.

            Người Công giáo vẫn giữ tập tục chúc nhau ngày tết, tham viếng nhau, tham gia các sinh hoạt hội hè do làng, thôn xóm tổ chức, sống hòa nhập với cộng đồng. Vẫn dựng nêu, đến nhà thờ cầu nguyện, trang hoàn cơ sở tôn giáo, tại tư gia vẫn trưng bày mâm ngũ quả…

            Tết thanh minh

            Đây là lễ nhớ về cội nguồn nơi bắt đầu của mỗi người. Tuy ngày nay không còn lễ thanh minh, nhưng dấu ấn vẫn còn thông qua việc tảo mộ. Do đó ngày tảo mộ cũng được gọi là tết thanh minh. Ngày này người Việt đi thăm các mộ, quét dọn, sơn mới lại các phần mộ của người mất. Đặc biệt là cúng cơm cho người mất.

            Một số tín đồ vẫn thực hiện ngày này, nhưng không thức hiện việc cúng cơm. Họ cũng dọn dẹp sạch sẽ khu vực và phần mộ của người quá cố. Vẫn có một buổi cầu nguyện cho người quá cố.

            Tết Trung thu

            Là lễ tết dành cho thiếu nhi, được tổ chức vào ngày rằm tháng tám. Đây là lễ mà nói với trẻ con Việt nam đầy mơ ước và có thể nói đây là lễ mong chờ hơn tết nguyên đán. Dù biết rằng lễ này có nguồn gốc không phải dành cho thiếu nhi. Nguồn gốc lễ này xuất phát từ Trung quốc, nó được hình thành vì ý nghĩa vào ngày lễ này sẽ cúng tế sức mạnh của thần linh đất đai.

            Xu thế chuẩn bị cho ngày này cũng khá nhộn nhịp, trước 1 tháng ngày lễ, thì tất cả cá nơi buôn bán đều ráo riết chuẩn bị lồng đèn, bánh trung thu, bánh bía. Các đội lân cũng bắt đầu nhộn nhịp trên đường phố.

            Người Công giáo vẫn tiếp nhận lễ tết trung thu này, ngày này Công giáo có thánh lễ cầu nguyện cho các em thiếu nhi. Sinh hoạt trung thu thì có chương trình văn nghệ, chú cuội hằng nga, phát bánh trung thu cho các em, và đây được xem là ngày vui nhộn tại nhà thờ

            KẾT LUẬN

            Công giáo là một trong những tôn giáo lớn tại Việt Nam. Tuy trong quá khứ có những xung đột về văn hóa, ý thức hệ, nhưng nhìn chung Công giáo vẫn chảy chung dòng chảy văn hóa Việt , đóng góp không nhỏ cho nền văn hóa Việt

            Tiểu luận đã phân tích các cột mốc trong nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt nam nói chung, vùng Nam bộ nói riêng. Chứng minh các giai đoạn phát triển song song của nghi lễ dân gian và bí tích Công giáo. Từ khi sinh ra đã có bí tích Rửa tội, khi bắt đầu có trí khôn và tham gia các lớp giáo lí con người bắt đầu đón nhận thêm các bí tích: giải tội, mình thánh Chúa, thêm xức. Khi quyết định đời sống của của mình người Công giáo có 3 hướng quyết định: một là lập gia đình có bí tích hôn nhân, hai là đi tu có bí tích truyền chức thánh và cuối cùng là sống đời sống độc thân (tại gia hoặc tham gia vào các dòng tu không có truyền chức thánh: như các sơ. Hay sống độc thân bên ngoài xã hội)

            Nghi lễ đời vòng đời của người Công giáo không chỉ dừng lại ở nghi lễ dân gian, mà còn mặc lên bí tích của tôn giáo. Giúp cho người Công giáo ý thức về nghi lễ của vòng đời của mình gắn với tôn giáo tin theo. Không dị biệt giữa nghi lễ dân gian với bí tích đời sống tôn giáo. Mà dùng nghi lễ dân gian để diễn tả đời sống đức tin, xem nghi lễ dân gian là phương tiện để gắn bó với tôn giáo.

            DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

            Bùi Xuân Mỹ. (2007). Lễ tục trong gia đình người Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin

            Bùi Xuân Mỹ. (2002). Tục thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin

            Cao Ngọc Lân (2013). Tìm Hiểu Văn Hóa Tâm Linh Của Người Việt. Hà Nội: NXB Lao động.

            Dương Ngọc Dũng (2016). Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh Xã hội học. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Đỗ Minh Hợp (2005). Tôn giáo lí luận xưa và nay. Thành Phố Hồ Chí Minh: NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

            Đỗ Minh Hợp (2009). Tôn giáo học nhập môn. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Đỗ Quang Hưng (2012). Công giáo trong mắt tôi. Hà Nội: NXB Tôn Giáo.

            Đỗ Quang Hưng (chủ biên). (2001). Tôn giáo về mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Hà nội

            Giáo hoàng Học Viện, Thánh Piô X (2016). Điển ngữ thần học Thánh Kinh. Hà Nội: NXb Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007). Bộ giáo luật 1983. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2012). Công đồng Vaticnô II. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2019). Sách giáo lí của Hội thánh Công giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2007), Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công Giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2016), Từ điển Công giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Karl Rahner (Nguyễn Luật Khoa dịch) (2010). Nhân học Kitô. Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa.

            Leopold Cadiere (Đỗ Trinh Huệ dịch). Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt. Huế: NXB Thời Đại

            Lê Trung Vũ – Nguyễn Hồng Dương – Lê Hồng Lý – Lưu Kiếm Thành. (2007). Nghi lễ vòng đời người. Hà Nội: NXB Hà Nội.

            Minh Đường. (2010). Phương pháp đặt bàn thờ thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Thời Đại

            Minh Đường. (2010). Nghi lễ cúng gia tiên. Hà Nội: NXB Thời Đại

            Nguyễn Đình Gia Bảo. (2016). Luật Tín ngưỡng Tôn Giáo và văn hóa Tín ngưỡng Tôn giáo của người Việt. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Nguyễn Đức Lộc. (2015). Cấu hình xã hội Cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

            Nguyễn Đức Lữ (2013). Tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị quốc gia.

            Nguyễn Hạnh. (2019). Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ

            Nguyễn Hồng Dương (2013). Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.

            Nguyễn Hồng Dương. (2004). Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà nội: NXB Khoa học xã hội Hà Nội

            Nguyễn Hồng Dương (2016). Những nẻo đường Phúc âm hóa Công giáo ở Việt nam. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Nguyễn Hồng Dương (2012). Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị quốc gia.

            Nguyễn Hồng Dương (2013). Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.

            Nguyễn Hồng Dương. (2004). Tôn Giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Hà Nội

            Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc.(2005). Tôn giáo – Tín ngưỡng của các cư dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương đông.

            Nguyễn Phương. (2019). Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và Bản sắc văn hóa của người Việt. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Nguyễn Văn Khôi (2013). Luân lý Kitô giáo qua 10 điều răn. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa. (2012). Các chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

            Phan Huy Lê. (2017). Vùng đất Nam Bộ quá trình hình thành và phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị Quốc gia sự thật.

            Phạm Đình Ái. (2016). Nhìn lại một số vấn đề phụng vụ tại Việt Nam. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Song Mai – Quỳnh Trang. (2006). Phong tục thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Văn Hóa Thông Tin.

            Trần Hữu Hợp. (2012). Công đồng người Việt Công giáo Đồng bằng sông cửu long, Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Trần Ngọc Anh. (2015). Nhân học Kitô giáo. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương đông.

            Trần Mạnh Hùng (2016). Đạo đức sinh học và những thách đố hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương Đông.

            Thuận Phước. (2016). Nghi lễ đời người. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn hóa dân tộc

            Toan Ánh. (2001). Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Dân tộc

            Trương Bát Cần (chủ biên). (2008). Lịch sử phát triển công giáo ở Việt Nam tập 1. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Trương Bát Cần (chủ biên). (2008). Lịch sử phát triển công giáo ở Việt Nam tập 2. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Joseph Ratzingger tác giả (2009). Dẫn nhập vào Kitô giáo (Nguyễn Luật Khoa biên dịch). Hà Nội: NXB Từ điển Bách khoa.

            [1] Bất lực khác vô sinh, bất lực có nghĩa là không có khả năng quan hệ tình dục, còn vô sinh thì vẫn có khả năng quan hệ tình dục được, nhưng không thể có con.

            Giáo Đoàn Công Giáo Việt Nam Tại Nhật

            Anh chị em thân mến,

            Đối với những người tin vào Chúa Kitô, sự sống chỉ biến đổi chứ không bị tiêu tan. T đã được chịu phép Rửa, đã khởi sự đời sống vĩnh hằng ngay khi còn sống ở trần gian này. Chúng ta cầu nguyện cho T, hy vọng T được hưởng vinh quang Phục Sinh với Đức Kitô.

            3. LỜI NGUYỆN

            Lạy Cha, xin thánh hóa người anh (chị) em chúng con đây, trong cuộc sống trần gian đã tin cậy vào Cha, đã phó thác cuộc đời cho Cha, đã tin vào lời hứa cứu độ của Cha. Xin cho người anh (chị) em chúng con được sống lại như Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

            Chủ Sự:

            Thưa anh chị em,

            Đứng trước thi hài người quá cố, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để đức Tin, đức Cậy và lòng Mến của chúng ta luôn luôn được nuôi dưỡng và củng cố.

            Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Roma. (Rm 6, 8-9)

            Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người. Đó là niềm tin của chúng ta. Vì chúng ta biết rằng một khi Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, tử thần chẳng còn quyền chi đối với Người.

            Đó là lời Chúa.

            Ước chi lời cầu nguyện của chúng ta trong giờ phút này giúp chúng ta cùng chia sẻ một niềm hy vọng.

            Xin cho những việc tốt mà T đã làm khi còn sống sẽ đem lại nhiều kết quả và còn được những người khác tiếp tục.

            Xin Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm mà T đã trót sai phạm vì yếu đuối.

            : Xin cho hình ảnh tốt đẹp của T luôn in sâu trong tâm hồn chúng con.

            Chủ Sự:

            Anh chị em thân mến,

            Trước cái chết của T đang làm cho chúng ta đau buồn, nhưng trong niềm tin cậy và yêu mến, chúng ta cùng nhau chạy đến với Chúa Giêsu. Cùng với Người, chúng ta hãy thưa lên rằng:

            (Rảy Nước Thánh trên thi hài)

            Lạy Chúa, Chúa đã biểu lộ tình thương mãnh liệt khi cho Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô xuống thế chịu khổ hình thập giá vì chúng con. Giờ đây chúng con cậy vào lòng nhân từ và quyền năng của Chúa mà xin cho người anh (chị) em tín hữu chúng con là T được chia sẻ vinh quang với Đức Giêsu Kitô, Đấng đánh bại thần chết, và xin cho T được tham dự vào đời sống phục sinh của Người đến muôn thưở muôn đời.

            6. LÀM PHÉP QUAN TÀI

            Chủ Sự:

            Chúng ta cùng cầu nguyện,

            Lạy Cha, chúng con biết rằng khi thân xác của chúng con là ngôi nhà tạm ở dưới đất này bị sự chết phá hủy, thì chúng con lại có một nơi cư ngụ do Chúa dựng nên. Đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do tay người phàm làm ra (2Cr. 5, 1).

            Lạy Cha xin thánh hóa và chúc phúc cho chiếc quan tài này, cũng là chiếc áo, là nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay hư nát của người anh (chị) em chúng con đây cư ngụ để chờ ngày phục sinh trong quyền năng của Cha.

            Xin cho nhà tạm này được Cha thánh hóa và chúc phúc, trở nên nơi yên nghỉ bình an cho thân xác người anh (chị) em chúng con là đền thờ Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con.

            Trong lúc đó CĐ hát một bài chọn trong phần Thánh Ca. Sau đó những người có nhiệm vụ tẩm liệm, đến quan tài làm nhiệm vụ.

            7. NGHI THỨC ĐẶT CÁC BIỂU TƯỢNG VÀ KỶ VẬT

            Kính thưa Quí vị,

            Chúng tôi xin chân thành cảm nhận và trân trọng tình thương yêu quí giá Quí vị dành cho tang quyến trong Nghi Lễ Phát Tang hôm nay. Nghi Lễ đặc biệt của các (con/ cháu/ chắt) của T để tưởng nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành của (Ông/Bà và Cha/Mẹ) mình và cầu nguyện, cùng tạ ơn Thiên Chúa đã che chở T trong suốt (60,70,80….) năm hành trình về nhà Chúa.

            1. THÁNH GIÁ & CHUỖI MÂN CÔI:

            Qua các Bí Tích trong cuộc sống, qua việc siêng năng thực hành bác ái, qua các lời kinh nguyện hằng ngày. Các (con/ cháu/ chắt) đã cảm nhận được, đã học hỏi thật nhiều nơi T. Giờ đây, các (con/ cháu/ chắt) sẽ mang những kỷ vật mà T luôn gìn giữ trân quí hằng ngày lên với T như để biểu tượng cho lòng hiếu thảo muốn noi gương (Ông/Bà và Cha/Mẹ) mình sống Tin Mừng Chúa Kitô và đồng thời muốn tỏ lòng thành kính dâng T lên cùng Chúa.

            Xin mời người con là ….. mang đặt Thánh Giá và chuỗi Mân Côi trên áo quan.

            Mời người con …….. mang đặt Cuốn Kinh Thánh lên áo quan.

            Khi còn sống, T đã đón nhận Tin Mừng của Đức Kitô. Giờ đây, xin Chúa Kitô tiếp nhận linh hồn T được vào Thiên Quốc để chính linh hồn T biết dùng lời hằng sống mà chúc tụng ngợi khen Chúa Cha trên trời.

            Và cuốn kinh các giờ Phụng Vụ T vẫn thường đọc theo luật của Hội (ví dụ: Dòng Ba Đa Minh hoặc Thủ Bản Đoàn Liên Minh Thánh Tâm hay Hội Các Bà Mẹ Công Giáo). Nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của (ví dụ Thánh Phụ Đa Minh, Trái Tim Chúa hoặc Thánh Nữ Monica) tiếp tục cho T được chúc tụng Chúa luôn mãi trên Nước Trời hằng sống. Amen.

            8. NGHI THỨC LÀM PHÉP XÁC

            Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

            9. NGHI THỨC LÀM PHÉP KHĂN TANG

            Vì thế, Chúa dậy chúng con phải thảo hiếu với cha mẹ và biết ơn các bậc tổ tiên khi các Ngài còn sinh tiền, cũng như khi các Ngài khuất núi. Chúa cũng dậy chúng con phải tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời.

            Giờ đây, chúng con xin Chúa đoái thương làm phép + và thánh hóa những chiếc khăn tang này, mà (con cháu) và gia đình của linh hồn T sẽ mang trên đầu, làm dấu hiệu cho đạo hiếu thảo và lòng thương nhớ đến linh hồn T

            Xin cho (con cháu) và gia đình của linh hồn T khi mang khăn tang này, được kiên trì trong lời kinh nguyện cho người quá cố và biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong tình đại gia đình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

            PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

            Lạy Cha, Cha đã gọi T ra khỏi thế gian này trở về với Cha. Xin cho người con Cha đây – ngay từ giờ phút này – được thoát vòng tội lỗi, được đón nhận vào nước Cha chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            Sau khi làm dấu Thánh Giá và chào cộng đoàn, linh mục chủ tế có thể dùng nghi thức sám hối sau đây:

            CA NHẬP LỄ: hát bài “Từ vực sâu u tối” hoặc hát Bộ Lễ Cầu Hồn.

            LM: Lạy Chúa là niềm hy vọng của những người đã chết, xin Chúa thương xót chúng con.

            GD: Xin Chúa thương xót chúng con.

            LM: Lạy Chúa Kitô, Chúa đã phục sinh để đem sự sống cho những ai đã ly trần, Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

            GD: Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

            LM:Lạy Chúa, Chúa đã hứa ban Nước Trời cho tất cả chúng con, Xin Chúa thương xót chúng con.

            GD: Xin Chúa thương xót chúng con.

            LM: Xin Thiên Chúa Toàn Năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

            LỚI NGUYỆN NHẬP LỄ * Nếu là Lễ Cầu Hồn

            GD: Amen.

            * Nếu là Lễ An Táng

            Lạy Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, khi chúng con đón nhận Bí Tích Thánh Tẩy, Chúa đã cho chúng con tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, xin cho người con của Chúa là………….. được thoát khỏi xiềng xích tử thần và chung phần hạnh phúc với các người Chúa chọn. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            PHỤNG VỤ LỜI CHÚA Bài Đọc 1: Isaia 25, 6a. 7-9

            Lạy Chúa là Đấng xót thương người tội lỗi và ban thưởng hạnh phúc muôn đời cho bậc thánh nhân, ngày hôm nay chúng con tiễn đưa………….. đến nơi an nghĩ cuối cùng. Xin cho người con của Chúa đây, ngay từ giờ phút này, được chung phần vinh phúc với các người Chúa chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh về quê trời hưởng Nhan Thánh Chúa. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            Bài trích sách Tiên Tri Isaia

            Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc. Và trên núi này, Người sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất khỏi mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán như vậy. Và ngày đó người ta sẽ nói: “Này đây Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người, và Người sẽ cứu chúng ta. Người là Chúa, nơi Người chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng trong ơn Người cứu độ.

            Đáp Ca

            Đó là Lời Chúa

            Thánh Vịnh 26 hay một bài thánh ca thích hợp

            Xướng: Chúa là sự sáng, là Đấng Cứu Độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, Tôi sợ gì ai?

            Đáp: Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ

            Xướng: Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong Nhà

            Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa và chiêm ngưỡng Thánh Điện của Ngài.

            Đáp: Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ

            Xướng: Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra tôn nhan Chúa, xin đừng ẩn mặt xa con.

            Đáp: Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ

            Xướng: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi

            Chúa.

            Bài Đọc 2: 1Cor 15, 20-24a. 25-28

            Đáp: Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ

            Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gởi tín hữu Côrintô.

            Anh em thân mến, giờ đây Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế, rồi người sẽ đến sau khi trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người. Nhưng khi Người tuyên bố rằng: “mọi sự đều quy phục Người”, dĩ nhiên phải trừ ra Đấng đã bắt buộc mọi sự quy phục Người. Nhưng khi mọi sự đã quy phục Người, thì bấy giờ Chúa Con cũng sẽ quy phục Đấng đã bắt mọi sự quy phục mình, ngõ hầu Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người.

            Đó là Lời Chúa

            Phúc Âm: Ga 17, 24-26

            Alleluia, Alleluia: Chúa phán: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết đời đời, Alleluia.

            Tin Mừng Chúa Giêsu theo Thánh Gioan

            Khi ấy Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con, thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng và Con cũng ở trong chúng nữa”.

            LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN

            Đó là Lời Chúa

            LM: Anh chị em thân mến, trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết và sống lại để ban cho nhân loại sự sống vĩnh cửu, chúng ta cùng tin tưởng dâng lời nguyện xin.

            Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ………… xưa kia nhờ bí tích thánh tẩy, đã tiếp nhận mầm sống vĩnh cửu, được hợp đoàn cùng các thánh trên Nước Trời.

            Đáp: Xin Chúa Nhậm lời chúng con.

            Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ………… xưa kia đã rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là bánh hằng sống, được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết.

            Đáp: Xin Chúa Nhậm lời chúng con.

            Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người đang an nghĩ trong niềm hy vọng sống lại, được chiêm ngưỡng ánh sáng tôn nhan Chúa muôn đời.

            Đáp: Xin Chúa Nhậm lời chúng con.

            Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả cộng đoàn đang họp nhau nơi đây trong tin tưởng và yêu thương, được Chúa cho đoàn tụ trong vinh quang Nước Chúa.

            Đáp: Xin Chúa Nhậm lời chúng con.

            PHỤNG VỤ THÁNH THỂ LỜI NGUYỆN TRÊN LỄ VẬT * Nếu là Lễ cầu Hồn

            LM: Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót, Chúa hằng nghe lời Dân Chúa nài van. Xin thương nhìn đến tôi tớ Chúa là …………. Đã hết lòng cây trông Chúa khi còn sống ở đời này, được tha mọi lỗi lầm và được hợp đoàn cùng các thánh trong nhà Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen

            * Nếu là Lễ An Táng

            Lạy Chúa, tôi tớ Chúa là………… khi còn sống ở đời này đã được Chúa cho gia nhập dân thánh. Giờ đây xin Chúa lắng nghe lời chúng con khẩn nguyện mà mở lượng từ bi đón nhận tôi tớ Chúa vào hang ngũ các thánh, trên cõi trời đầy ánh sáng và bình an. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            KINH TIỀN TỤNG

            Lạy Chúa, chúng con dâng lễ tế này trong ngày an táng tôi tớ Chúa là ………. Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận và thương đến người quá cố: nếu vì yếu đuối lỡ lầm mà tôi tớ Chúa đây hãy còn mang vết nhơ tội lỗi, thì xin Chúa thanh tẩy và thứ tha. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            LM: Chúa ở cùng anh chị em

            GD: Và ở cùng cha

            LM: Hãy nâng tâm hồn lên

            GD: Chúng con đang hướng về Chúa

            LM: Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta

            GD: Thật là chính đáng.

            Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa Toàn Năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.

            Vì một mình Người đã chịu chết, để chúng con khỏi phải chết, hơn nữa, một mình Người đã vui lòng chịu chết, để chúng con được sống luôn mãi cho Chúa.

            LỜI NGUYỆN HIỆP LỄ * Nếu là Lễ cầu Hồn

            Vì thế, hiệp với đoàn các thiên thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân hoan tuyên xưng rằng.

            * Nếu là Lễ An Táng

            Lạy Chúa, chúng con dâng những lễ vật này để ca tụng Thánh Danh, và cầu cho người con của Chúa là ………… Ước gì nhờ thánh lễ chúng con đang sốt sắng cử hành, tôi tớ Chúa là ………… được sống lại và hưởng phúc trường sinh. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            NGHI LỄ AN TÁNG NGHI THỨC PHÓ DÂNG VÀ TỪ BIỆT Sau lời nguyện hiệp lễ, không ban phép lành cuối lễ. Tang quyến có thể cám ơn. Sau lời cám ơn của tang quyến, linh mục chủ tế đi xuống đứng trước quan tài để cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt.

            Lạy Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, nhờ thánh lễ chúng con dâng, xin cho người con của Chúa là ……….., hôm nay đã lìa cõi thế, được Máu thánh Đức Kitô rửa sạch lỗi lầm, và được hưởng niềm hoan lạc trong ngày phục sinh. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            Anh chị em thân mến, trong khi thi hành nhiệm vụ hỏa táng thi hài này, chúng ta nài xin cho tôi tớ Chúa là …………. mà chúng ta sẽ hỏa táng, nhờ quyền năng Chúa, được sống lại trong hàng ngủ các thánh, và cho linh hồn tôi tớ Chúa được sum họp với các thánh và những người đã tin vào Chúa

            Linh mục rảy nước thánh và xông hương quan tài, sau đó linh mục đọc tiếp.

            Nguyện xin Chúa mở lượng nhân từ trong khi xét xử, để tôi tớ Chúa là ……….. được cứu độ và giải thoát khỏi hình phạt tội lỗi, được giao hòa với Chúa Cha, được Đấng Chăn Chiên Lành ôm vào lòng, đưa về đoàn tụ cùng Vua muôn đời, để đáng được hưởng nguồn vui bất diệt làm một với cộng đoàn các thánh.

            Lạy Cha rất nhân từ, chúng con xin phó dâng linh hồn ………… trong tay Cha. Xin cho chúng con được hy vọng chắc chắn linh hồn ……….. sẽ được sống lại cùng Chúa Kitô trong ngày sau hết, cũng như mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa Kitô.

            Mọi người đi đến bỏ hoa, trong lúc đó ca đoàn hát hoặc đọc kinh. Sau đó di quan đến nơi hỏa táng. TẠI NƠI HỎA TÁNG

            Vậy xin Chúa lấy lòng nhân từ nghe lời chúng con khẩn nguyện mà mở cửa thiên đàng cho tôi tớ Chúa là ……….. và cho chúng con đang còn ở lại, được dùng lời lẽ đức tin mà an ủi nhau, đợi ngày mọi người tái ngộ trong Chúa Kitô, được sống mãi với Chúa và bên cạnh tôi tớ Chúa là ………. Chúng Con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            Trước khi đưa thi hài vào lò hỏa táng, linh mục nên cử hành nghi thức sau đây.

            Thiên Chúa Toàn Năng đã muốn gọi ………… ra khỏi cuộc sống này mà về với Chúa, vậy chúng ta tin tưởng phó thác tôi tớ Chúa đây cho lòng thương xót của Chúa.

            Chúa Kitô là Đấng đầu tiên đã từ cõi chết sống lại, Người sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân thể sáng láng của Người. Vậy chúng ta xin Chúa đón nhận tôi tớ Chúa đây và đưa vào chốn bình an của Người, và cho thân xác tôi tớ Chúa được sống lại trong ngày sau hết.

            Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã phán rằng: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin ta, sẽ không phải chết muôn đời”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tôi tớ Chúa là ………..

            Lạy Chúa, Chúa đã khóc thương Lazarô chết, xin hãy lau sạch nước mắt chúng con.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Chúa đã làm cho kẻ chết sống lại, xin đoái thương ban cho linh hồn ………. được sống đời đời.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Chúa đã hứa thiên đàng cho người kẻ trộm có lòng hối cải, xin đoái thương đưa linh hồn ……….. vào nước trời.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Chúa đã cho linh hồn ……….. được ghi ấn tín trong nước thánh tẩy, xin đoái thương cho linh hồn ……… được vào số các thánh và những người Chúa chọn.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Chúa đã nuôi dưỡng tôi tớ Chúa là ………… trong tiệc thánh Mình và Máu Chúa, xin đoái thương nhận linh hồn ………… vào bàn tiệc trong nước Chúa.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Xin Chúa đoái thương cho chúng con đang thương nhớ linh hồn ……….. , được an ủi trong đức tin và phấn khởi trong niềm hy vọng được sống đời đời.

            Linh mục chủ tế xướng kinh “Lạy Cha” và cả cộng đoàn cùng đọc.

            CĐ: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Sau kinh Lạy Cha, linh mục chủ tế đọc lời nguyện kết thúc sau đây.

            Lạy Cha chúng con ở trên trời.

            Lạy Chúa, xin Chúa lấy lòng nhân từ thương đến tôi tớ Chúa là ……….. đã qua đời mà tha phạt các hành vi của tôi tớ Chúa khi còn sống. Tôi tớ Chúa đã có lòng ước nguyện vâng theo thánh ý Chúa. Vậy ở dưới đất đức tin chân thật đã liên kết tôi tớ Chúa với cộng đoàn tín hữu, thì trên trời, xin Chúa nhân lành cũng cho tôi tớ Chúa được sum họp với hàng ngũ các Thiên Thần. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

            LM: Lạy Chúa, xin cho linh hồn ………. được hưởng hạnh phúc muôn đời.

            Sau đó đưa thi hài vào lò hỏa thiêu

            GD: Và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên linh hồn ………..

            Khoa Phạm Công Văn Trong Phật Giáo Việt Nam

               Khoa phạm công văn trong Phật Giáo Việt Nam là những cách thức mẫu mực giấy tờ dùng để biểu bạch lên Tam Bảo, hoặc trình bày lên bậc Tiên Thánh, Thần Linh, Vong Hồn…trong pháp giới Thập Đạo. Mục đích giúp cho Trai Chủ hay Tín Chủ tóm tắt những lời phát nguyện tu hành cùng những ước nguyện, những lời sám hối tội khiên nhằm vun trồng cây công đức.

               Những loại văn bản sau đây hiện đang còn áp dụng: Sớ, Biểu, Trạng, Hịch, Điệp, Dẫn, Phan, Bảng, Thiếp, Bài Vị…

            1. SỚ (SỚ VĂN, VĂN SỚ, TẤU SỚ).

               Là văn thư của quần thần dâng lên bậc trên như Đức Vua. Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thánh kính dâng lên đấng tối linh, chí tôn như Chư Phật, Chư Thần, Chư Thánh; là chiếc cầu nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Đặc biệt có một loại sớ văn gọi là Pháp Đường Sớ được dùng trong Thiền Môn, là văn từ của Vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó dùng để khai đường thuyết pháp.

            2. BIỂU.

               Là loại tấu chương thời xưa được quần thần dùng đểr trình cấp lên Đế vương, như “Xuất Sư Biểu” của Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc, “Trần Tình Biểu” của Lý Mật.

            3. TRẠNG.

               Là bản văn giải bày sự thật trình lên Chư vị Thần, Thánh. Theo tục lệ của Đạo Giáo Trung Quốc, chỉ dùng để đốt đi, không dùng tuyên đọc. Tuy nhiên hiện tại ở Việt Nam, các bức Trạng vẫn được dùng để tuyên đọc rồi mới đem đốt. Bản văn dùng để trần tình những oan khuất của người mất lên Thiên Đình hay Địa Phủ được gọi là “Cáo Âm Trạng”. Trong Đạo Giáo, tuy theo đăng cấp của Chư vị Thân Linh cao thấp mà phân thành 3 loại Trạng: Tấu Trạng, Thân Trạng và Điệp Trạng. 

            TẤU TRẠNG được dùng cho Chư Thần như Tam Thanh, Ngọc Hoàng, Tử Vi Đại Đế, Đông Cực Thái Ất, Cực Trường Sinh Đại Đế, Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ, Thập Phương Linh Bảo Thiên Tôn, Ngũ Linh Ngũ Lão Ngũ Đế Thiên Quân…

            THÂN TRẠNG được dùng cho chư vị đẳng cấp thấp hơn như Linh Bảo Tam Sư, Tam Quan, Nhật Cung Thái Dương Đế Quân, Nguyệt Cung Thái Âm Đế Quân, Ngũ Tinh Tứ Diệu Ngũ Đẩu, Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân, Bắc Đẩu Cửu Thiên Tinh Hoàng Quân, Thái Tuế Tôn Thần…

            ĐIỆP TRẠNG được dùng cho chư vị Thần cấp dưới nữa như Châu Thành Hoàng, Huyện Thành Hoàng, Cửu Châu Xã Lịnh, Thập Phương Đạo Đô Chúa Giả, Thổ Địa Lý Thành Chân Quan, Tam Giới Trực Phù Thần Hổ Sứ Giả…

               Một số Trạng được dùng trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam như Trạng Lễ Đảo Bệnh, Trạng Tống Mộc, Trạng Lễ Tạ Thổ, Trạng Lễ Phù Sứ…

            4. HỊCH.

               Là văn thư xưa kia cấp trên dùng để kêu gọi, triệu tập, hiểu dụ cấp dưới. Trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam có một số loại Hịch như Hịch Thủy Văn (dùng khi cúng dưới nước khai mở bạt độ trầm luân), Phát Thành Hoàng Thổ Địa Hịch (dùng khi hịch cáo Thành Hoàng Thổ Địa), Khai Tịch Hịch (dùng khi khai khẩn đất đai), Chiêu Sơn Thủy Hịch (dùng khi hịch cáo thần sông nước) …

            5. ĐIỆP

               Là loại văn thư của quan phủ, hay nói đúng hơn là bức văn chuyển giao của cấp trên, là cái Trát hay tờ trình. Trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam, Điệp là loại văn thư không kém phần quan trọng dâng lên Chư Thần Linh, hay là văn thư chuyển giao giữa Thần với Thần. Trong nghi lễ có khá nhiều loại Điệp được dùng đến như Điệp Lễ Cầu Siêu, Điệp Cúng Cô Hồn, Điệp Cấp Phóng Sinh, Điệp Cấp Tụng Thủy Sám, Điệp Thăng Kiều Giải Oan Bạt Độ, Điệp Cúng Trai Tuần…

            6. DẪN.

               Là một thể văn được hình thành vào thời nhà Đường, như “Dẫn Thủy Sám Bát Tiên”.

            7. PHAN (PHƯỚN).

               Là một loại cờ dài hẹp, treo rủ thẳng xuống có ghi nội dung tùy theo mục đích buổi lễ. Trong Phật Giáo, loại này thường được dùng với nhiều ý nghĩa, mục đích và tên gọi khác nhau.

            TRÀNG PHAN được xem như một loại pháp khí, rất thông dụng trong các pháp đàn của Phật Giáo lẫn Đạo Giáo, dùng để cáo Thiên Địa, mời gọi Chư Thần Linh. TRÀNG trên đầu thường có long che, cầm với cây cán còn PHAN thì không có lọng che, cầm trực tiếp bằng tay.

            BẠCH HỔ PHAN là lá phướn trên có trang trí hình ông hổ trắng, dùng để truyền tin chiếu lệnh.

            PHAN CÁI là một loại tràng phan trên có long che, dùng để trang trí tại nơi tôn nghiêm như Chùa Chiền, Đền Điện.

            8. BẢNG. 

               Trong nghi thức trai đàn cuat Phật Giáo cũng như Đạo Giáo, đây là loại văn thư dùng để niêm yết, với ý nghĩa thông báo trước cho mọi người biết về trình tự pháp sự, chi tiết hành lễ, thành phần tham dự, trình tự khoa nghi, chức vị của chư vị trong đàn tràng… Loại này vẫn được dùng rất phổ biến để niêm yết, thông tri các tin tức.

            9. THIẾP.

               Là loại danh thiếp dùng để đáp lễ qua lại trong ứng xử hàng ngày. Trong Công Văn Đàn Tràng, một số Thiếp được dùng như Tịnh Trù Thiếp, Cấp Thủy Thiếp, Tứ Sinh Lục Đạo Thiếp, Tam Bảo Thiếp… Có một số loại Thiếp thông dụng như:

            BÁO THIẾP là loại thiệp dùng để thông báo.

            THỈNH THIẾP là thiệp dùng để cung thỉnh hay mời ai đó đến tham dự buổi lễ, yến tiệc.

            BÁT TỰ THIẾP là thiệp xưa kia khi bàn chuyện hôn nhân, cá hai nhà gái và trai đều dùng tấm thiệp 8 chữ ghi ngày giờ tháng năm sinh trao đổi qua lại để xem thử có xung khắc hay tương hợp.

            BÁI THIẾP là tấm thiệp hồi xưa dùng để thông báo sẽ đến thăm ai đó.

            BÁO TANG THIẾP là tấm thiệp dùng trong tang lễ ngày xưa để thông báo cho bà con, thân hữu biết có người đã từ trần, khác với bản Cáo Phó.

            BẢNG THIẾP là tấm cáo thị để chiêu dụ bá tánh, hay là bảng niêm yết danh tính của các thí sinh thi đỗ.

            10. BÀI VỊ. 

            -Sớ Điệp Công Văn-

            Lễ Gia Tiên Theo Nghi Thức Công Giáo

            Đa số các gia đình Công giáo không có bàn thờ tổ tiên, nhưng trong nghi thức rước dâu và lễ gia tiên của chúng ta lại có phần nghi thức kính nhớ ông bà tổ tiên, có phần lên đèn, thắp hương lạy tổ tiên ông bà theo tục cổ truyền, vì vậy chúng ta phải lập thêm 1 bàn thờ phía dưới bàn thờ Chúa để tưởng nhớ tổ tiên ông bà và cũng là bàn thờ tơ hồng, bàn thờ này đơn sơ thôi, có 1 bình hoa, 1 đĩa quả, bộ lư, cặp đèn Long Phụng (nhà trai thì cắm sẳn đèn trên bàn thờ còn nhà gái thì để không, vì cặp đèn này sẻ do nhà trai đem qua) 3 nén hương lớn để sẳn trên bàn thờ. Bàn thờ Chúa thì chúng ta trang hoàng thêm cho lộng lẫy, có 1 bình hoa tươi (không để trái cây trên bàn thờ Chúa). Nếu cần thiết cho thêm hàng chữ “Thiên Chúa là tình yêu” hoặc “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly”, bàn thờ tổ tiên này cả nhà trai và nhà gái đều lập và tương đối giống nhau. Các mâm quả và hoa cầm tay thì theo như nghi thức cổ truyền.

            Lễ rước dâu (Xuất giá) tại nhà gái

            Đoàn rước dâu của họ nhà trai đến ngoài cổng nhà gái thì người trưởng tộc hoặc đại diện họ nhà trai đi cùng chú rễ phụ, chú rễ phụ này cầm theo khay rượu trầu vào gặp trưởng tộc nhà gái để xin vào tiến hành lễ rước dâu, trưởng tộc nhà trai mời trưởng tộc nhà gái uống 1 chung rượu và miếng trầu. sau khi được nhà gái chấp thuận vị trưởng tộc nhà trai trở ra đi cùng đoàn nhà trai vào, trưởng tộc cùng cha mẹ chú rễ và chú rễ vào trước, mâm quả của họ nhà trai được trao cho nhà gái và đoàn người rước dâu cùng vào. Tất cả mâm quả đều đặt trước bàn thờ Chúa và tổ tiên.

            Nhà trai ngỏ lời và giới thiệu sính lễ:

            : Trưởng tộc nhà trai nói “Kính thưa quý ông bà và quý họ nhà gái, nhờ ơn Chúa và sự sắp đặt của gia đình, hai cháu …. Và ….. đã nên vợ chồng. Qua mối dây liên kết thánh thiện này, hai gia đình và hai họ chúng ta cũng được gần gũi liên hệ mật thiết với nhau. Hôm nay chúng tôi, họ nhà trai xin đưa sính lễ đến chào mừng và cám ơn gia đình cũng như quý họ”.

            Trưởng tộc nhà trai giới thiệu đoàn rước dâu nhà trai và trưởng tộc nhà gái giới thiệu thành phần gia đình họ nhà gái trong buổi lễ.

            Cha hoặc mẹ chú rể mở mâm quả, nhớ mở mâm có chiếc áo dài để nhà gái đưa vào trong cho cô dâu mặc trước khi ra mắt gia đình đàng trai, cặp đèn để cho họ nhà gái chuẩn bị lên đèn, mở hết sính lễ, trừ mâm trầu cau (để chú rễ và cô dâu mở). Trong khi cô dâu thay áo dài và trang điểm, gia đình 2 họ dùng tiệc trà và trò chuyện. Sau khi cô dâu mặc áo dài xong, nhà gái xin phép cho cô dâu ra mắt.

            Mẹ chú rễ tặng trang sức cho cô dâu, (đến phần này theo nghi thức cổ truyền là cô dâu chú rễ đeo nhẫn cho nhau, nhưng người công giáo chúng ta không làm và nghi thức này sẽ được tiến hành trong nhà thờ) cô dâu và chú rể đốt 2 cây nến cháy đều 1 lúc (nên nhớ 2 cây nến này là nến long phụng đốt rồi cắm trên bàn thờ tổ tiên tơ hồng, còn nến trên bàn thờ Chúa phải thắp bằng đèn trắng thường và đốt trước buổi lễ).

            * Kinh nguyện tạ ơn thiên chúa:

            Vị trưởng tộc nhà gái hoặc đại diện gia tộc đứng phía trước quay ngang giữa bàn thờ và cộng đoàn để chủ sự lễ nghi.

            : Sau đó nói ít lời như sau Kính thưa quý vị bên họ nhà trai. Hôm nay gia tộc chúng tôi có con gái tới tuổi trưởng thành đi lập gia đình, con cháu chúng tôi đã được bên họ đàng trai thương nhận về làm dâu con. Giờ đây trước lúc cháu từ biệt gia đình, bắt đầu cuộc sống mới, chúng tôi xin quý vị và bà con xa gần hiệp cùng chúng tôi, dâng lời cầu nguyện cho đôi trẻ được nên vợ chồng hòa hợp hạnh phúc.

            Cô dâu và chú rể đặt nến lên bàn thờ,vị trưởng tộc đốt 3 nén hương trao chú rễ và cô dâu mỗi người một nén vị trưởng tộc bái trước, sau đó chú rễ cùng cô dâu bái 3 lần trước bàn thờ rồi cắm hương. (Nếu trong nhà còn thờ ai nửa thì cứ thắp mỗi nơi 3 nén hương).

            Cộng đoàn: Hát bài “Xin Vâng”.

            Mẹ ơi đời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng: “Xin Vâng”. Mẹ ơi đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng: “Xin Vâng”.

            Mẹ ơi đời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng: “Xin Vâng”. Mẹ ơi đường đi phủ đầy bóng tối, bẫy chông giăng tràn muôn lối, xin Mẹ dạy con hai tiếng: “Xin Vâng”.

            ÐK: Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng”, hôm qua, hôm nay và ngày mai. Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng”, hôm nay, tương lai và suốt đời.

            : Chú rể và cô dâu cùng đọc Chúng con là ……….. và …………vừa dâng nén hương để tỏ lòng thành kính và biết ơn Tổ tiên, ông bà, xin các ngài phù hộ cho tình yêu của chúng con.

            – Cô dâu chú rể bái 1 lần rồi quay sang cha mẹ nhà gái.

            : Thưa ba má kính mến, hôm nay con về nhà chồng, bước sang quảng đời mới với trách nhiệm mới, tuy không còn sống chung trong gia đình với ba mẹ anh chị em, nhưng lòng con không bao giờ dám quên công ơn sinh thành dưỡng dục của ba mẹ. Con quyết lòng sống đẹp với mọi người, chu toàn bổn phận và hết lòng trung thành với Chúa để đền đáp công ơn ba mẹ, xin Chúa gìn giữ Ba mẹ khỏe mạnh (có thể Cô dâu và chú rễ bái 1 lần hoặc chế luôn không bái tùy gia đình).

            Cô dâu và chú rễ cùng hát bài: “Cầu cho cha mẹ”

            1. Xin Chúa (í a) chúc lành, cho đời cha mẹ của con. Công ơn là như núi non dưỡng nuôi con bao ngày vuông tròn. Con sinh đến trong đời, an vui nhờ có ơn trời, và ơn cha mẹ suốt đời coi nhẹ khổ đau.

            2. An vui cũng như đau buồn, luôn đẹp tấm lòng mẹ cha. Ai qua là bao chốn xua, thấy đâu vui cho bằng mái nhà. Mai con lớn lên rồi, ra đi tung cánh trong đời, dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha.

            ĐK. Xin cho cha mẹ con thắm mãi tình son của Chúa Trời. Cho con giữa gia đình luôn sống theo tình người con ngoan.

            Ghi chú: Nếu cha mẹ cô dâu mất, thì nói câu này trước bàn thờ cha mẹ, hoặc 1 người bị mất, thì người còn lại (cha hoặc mẹ) đứng cạnh bàn thờ của người đã bị mất.

            : Trưởng tộc nhà trai “Kính thưa quý ông bà và họ nhà gái, nghi lễ đã đầy đủ và mọi tâm sự đã được giải bày. Giờ đây xin phép quý ông bà cho chúng tôi đón cháu về để nhập tiền thành hôn”.

            Gia đình nhà gái tặng quà cho cô dâu, nhà trai ngồi dùng tiệc trà trước khi nói vài lời chia tay.

            Đoàn rước dâu về tới nhà trai, mẹ chú rể dắt cô dâu vào nhà trước. trưởng tộc, cha chú rể và chú rể cùng đoàn rước dâu vào nhà sau (theo phong tục cổ truyền).

            Nghi lễ trình diện thiên chúa và tổ tiên:

            * Đốt đèn: Cô dâu, chú rể cùng đốt 2 cây nến (đã được cắm sẳn trên bàn thờ tổ tiên), cho cháy đều một lúc.

            * Trình diện Chúa và tổ tiên: Trưởng tộc thắp 3 nén hương, trao cho chú rễ và cô dâu mỗi người 1 nén, trưởng tộc lạy trước, theo thứ tự bàn thờ Chúa rồi đến tổ tiên. Sau đó chú rễ cùng cô dâu cũng bái 3 lần trước bàn thờ Chúa và tổ tiên, sau đó cắm vào lư hương hay bát hương trên bàn thờ tổ tiên (nếu trong nhà còn thờ ai thì lấy thêm hương nhỏ đốt và lạy tiếp mổi nơi 3 lạy theo thứ tự trưởng tộc lạy trước, cô dâu và chú rễ lạy sau).

            * Bái chào cha mẹ: Sau đó chú rể và cô dâu quay mặt trở lại chào cha mẹ chồng (chấp tay cúi đầu chào thôi, không lạy)

            * Bái chào nhau: Cô dâu và chú rể quay mặt vào nhau, (chấp tay, cúi đầu chào nhau 3 lần)

            Công Bố Lời Chúa: (Phần đọc lời Chúa này không nhất thiết là vị trưởng tộc bên nào, quan trọng là chúng ta phân công trước để có người thực hiện)

            Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Ðức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.

            Lời nguyện Cộng Đoàn: (Sau khi công bố Lời Chúa, vị chủ sự đọc những lời nguyện sau)

            – Chủ sự: Kính lạy Chúa là Cha của chúng con, chúng con là cha mẹ, họ hàng bạn hữu của đôi tân hôn xin dâng lên Cha những lời cầu xin tha thiết. Xin Cha thương ban muôn ơn lành cho hai người để nên một gia đình hạnh phúc. Xin cho họ gắn bó trung thành yêu thương nhau mãi mãi. Xin cho họ biết quảng đại tha thứ khuyết điểm của nhau, luôn chu toàn nhiệm vụ làm chồng, làm vợ, hầu cho gia đình ngày thêm bền vững. Chúng con cầu xin Chúa.

            – Chủ sự: Xin Cha thương chúc lành cho đôi bên thông gia chúng con được luôn thông cảm với nhau, cùng nhau giúp đôi vợ chồng mới hòa hợp hạnh phúc. Xin Chúa đổ tràn hồng ân cho những người đã làm ơn cho chúng con, chú bác cô dì và nhiều người khác mà chúng con không thể kể hết ra đây. Xin cho mọi người hiện diện được hồn an xác mạnh và đầy thánh ân Cha. Chúng con cầu xin Chúa.

            Cộng đoàn hát bài: “Đâu có tình yêu thương” hoặc bài “Hồng ân Thiên Chúa bao la.”

            ÐK1: Xin dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la. Xin dâng lời cảm mến hòa theo tiếng hát dâng lên. Ðôi bàn tay Chúa nâng đỡ con, xin dâng lời cảm tạ. Cho đời con vững một niềm tin, xin dâng lời cảm mến. Ðôi bàn tay Chúa dẫn con đi, xin dâng lời cảm tạ. Tay hồng ân Chúa đưa con về, xin dâng lời cảm mến. Chúa cho con trời mới đất mới, đường đời con đổi mới. Con (i) ca ngợi lòng thương xót Chúa muôn muôn đời.

            1. Ðời đời Người đã thương con, đời đời Người vẫn thương con, thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh, Chúa thương yêu ấp ủ con đêm ngày.

            2. Nhiệm mầu tình Chúa cao siêu, loài người được Chúa nâng niu, nâng niu tựa con ngươi trong mắt Chúa, Chúa nâng niu gìn giữ luôn đêm ngày.

            “Nghi thức trình diện và cầu nguyện cho đôi tân hôn đã kết thúc, kính mời quý ông bà, quý khách, cùng quý bà con anh em hai họ an tọa, mời họ hàng thân tộc của chú rễ tặng quà cho đôi tân hôn” (lần lượt giới thiệu từng người tặng quà theo thứ tự lớn trước nhỏ sau).

            Ghi chú: Chúng ta có thể tiến hành lễ rước dâu xong rồi sang nhà thờ làm lễ hôn phối và sau đó về nhập gia đàng trai, nhưng theo tôi thì ta nên tiến hành tất cả nghi lễ ngoài đời trước và đến nhà thờ sau, cho phần nghi thức tôn giáo thêm trang trọng. Để sau đó nhà trai có thể mời nhà gái cùng linh mục làm lễ hôn phối cũng như ca đoàn ăn bửa cơm trưa thân mật.

            Bạn đang đọc nội dung bài viết Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!