Đề Xuất 3/2023 # Phong Tục Ma Chay Của Người Huế # Top 3 Like | Herodota.com

Đề Xuất 3/2023 # Phong Tục Ma Chay Của Người Huế # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phong Tục Ma Chay Của Người Huế mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Bài viết của Trần Như Lãm

“Sinh hữu hạn tử vô kỳ”. Có sanh ắt có tử. Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của tạo hóa. Phong tục ma chay của nhiều địa phương trên địa bàn Thừa Thiên Huế tuy có nhiều nét khác nhau nhưng vẫn giống nhau ở những điểm cơ bản.

Khi có người qua đời, nếu chết ở đường xa, quan tài không đem vào nhà, mà làm tang ở ngã ba đường cái. Nếu qua đời trong sự bình thường, quan tài thường được quàng ở nhà lớn. Tùy theo địa vị trong gia đình quàng ở căn giữa, căn trên hay căn dưới. Người ta truyền miệng cho nhau trong làng cùng biết. “Nhất cận thân, nhì cận lân”, bà con lối xóm tập trung đông đúc, người làm rạp, người trang hoàng, người tẩm liệm. Công việc rộn rịp trong ngày đầu. Từ chết không ai được dùng đến, mà gọi là mất. Người vừa mất được đặt trên cái giường quay đầu ra ngoài sân. Cơm gối đầu: Liền sau khi mất, người nhà đơm một chén cơm đầy vung, chén cơm để một cái trứng vịt đã lột vỏ và cấm vào chén cơm đôi đũa tre, trên đầu đũa có vót cho tre quấn lại thành cái bông, rồi để chén cơm ấy phía trên đầu người chết.

Quan tài (hòm) được trét đất sét phía trong, đất nhào thật nhuyễn với nước cơm (hồ) trát đầy phía trong, ở các góc và các kẽ hở. Dùng lá chuối xanh dán vào lớp đất, lót ở trong đáy hòm nhiều mạc cưa, mun (tro bếp) phòng hờ nhiều năm sau, có thể cải táng mà nhận dạng.

Khi làm lễ hạ thổ thi thể đàn ông đưa lên đưa xuống đất 7 lần (7 vía), đàn bà 9 lần (9 vía). Nói như vậy nhưng mục đích là để khí dương trong thân thể người chết thoát hết vào đất. Sau khi đặt thi thể người chết vào quan tài, phủ đất kín mít. Đậy nắp quan tài cũng phải coi giờ tốt. Dùng dây mây hoặc tre dài làm dây néo ở hai đầu quan tài thật chắc (hơi trong quan tài mạnh có thể làm bật nắp quan tài). Quan tài đặt trên hai ghế ngắn. Chân ghế có cột vải tẩm dầu hỏa để phòng ngừa kiến leo lên. Dưới quan tài đặt một dĩa đèn dầu phụng thắp sáng ngày đêm, mục địch hơi dầu phụng thơm, xông lên đánh tan mùi tử khí. Vì vậy, lúc bốc mộ dùng dầu phụng bôi vào mũi tay chân tránh được mùi xú uế, mùi tử khí. Các thứ dầu Nhị thiên đường, dầu thêm đến mức nào cũng không ngăn được loại mùi chết đó!…Ngoài hòm trang trí các hoa văn, cánh sen hoặc sơn phết cho đẹp, còn phủ lên trên hòm vải trắng có “đăng ten”, bấy giờ hòm gọi là linh cữu. Trước linh cữu có bàn soạn thiết trí linh vị có ảnh, chúng ta thường gọi là linh sàn. Trước linh sàn, đôi khi có nhà đặt bàn Phật, có nhà lập bàn Phật xây qua hướng khác.

Chùa có sắn cây triện, lên đó mượn, rồi viết lên một miếng vải hoặc giấy ghi tên tuổi làng xã… người mất. Chữ viết trên triện phải theo quy luật:

Người chết là nam, tổng số chữ viết trên triện chia cho 4, còn lẽ ba (quỹ, khóc, linh). Người chết là nữ, chữ trên triện chia cho 4 là chẵn (quỹ, khóc, linh, thính). Viết xong treo trước quan tài. Không có lá triện là “ma chết không triện” nên phải có.

Đám ma ở làng, nhà giàu thường mời thầy chùa, thầy pháp, nếu không, nhờ khuông hội Phật giáo làng cúng kiến tụng kinh. Chương trình tang lễ được đặt ra tùy theo xem được ngày giờ chôn cất. Nếu không coi ngày giờ, nội trong ba ngày là phải chôn cất: “Tam nhật nội chi nội bất khán lịch nhật”. Người chết gặp lúc cận Tết phải chôn cất vào ngày 30 tháng Chạp, không được để sang năm mới.

Sau khi lập liệm xong, trang hoàng nhà cửa tươm tất rồi làm lễ thành thục. Lễ thành thục là lễ chịu tang, con cháu nội ngoại, dâu, rễ, chắt chiu họp lại bịt khăn tang. Ai cũng dùng sắc phục màu trắng; riêng chắt nội mặc áo và bịt khăn màu đỏ, chắc ngoại mặc áo và bịt khăn màu vàng.

Lễ thành phục xong, con trai, cháu nội đích tôn đội mũ rơm, chống gậy tre (nếu ông nội hoặc cha mất), gậy vông (nếu bà nội hoặc mẹ mất). Phụ nữ là con, vợ, dâu trùm vải lên đẩu gọi là mũ mấn. Quanh quẩn bên quan tài không được lớn tiếng và ngồi ăn uống với khách đến viếng thăm, chỉ được phép đứng. Trước lúc làm lễ thành phục phải có cau trầu rượu thưa chuyện và mời một vị làm chấp lệnh nội (thường là các vị trưởng Họ, Phái; nếu gia đình neo đơn phải mượn người lớn tuổi quen biết). Ông chấp lệnh là người điều hành tang lễ trong suốt thời gian tang chế. Mọi người trong hàng tang chủ phải tuyệt đối chấp hành, trình bày với “quan” chấp lệnh vì “tang gia bối rối” nên không sáng suốt để điều hành công việc. Tập quán làng hễ có người qua đời, việc đầu tiên là đến thăm hỏi, sau đó ngày khác phúng điếu. Lễ vật cúng điếu là hương (nhang) và tiền (không nhiều). Đây là nghĩa vụ của người dân hương thôn gọi là “thù tạc vãng lai” (có qua có lại). Nếu là sui gia, Họ, Phái, tổ chức tập thể phải có thêm mâm cau trầu rượu. Lệnh kiểng để làm lễ có phân loại: -Ba hồi lệnh và ba đùi (tiếng) dành cho các đơn vị lớn hơn như Làng, Họ, Phái, Xóm -Một hồi lệnh và ba đùi (tiếng) dành cho thông gia hoặc ai có mâm cau trầu rượu -Ba đùi (tiếng) là tình làng nghĩa xóm. Nghe tiếng lệnh là phân biệt được ai đang phúng điếu.

Trước ngày đưa đám có lễ cúng như: yết cáo từ đường (trình với tổ tiên ngày mai đến ở chỗ mới), triêu điện (lễ buổi sáng), tịch điện (lễ buổi tối). Đêm trước ngày mai đưa linh cữu về nơi an nghỉ cuối cùng có lễ nhiễu quan. Lễ nhiễu quan là lễ đi quanh hòm, để tỏ sự luyến tiếc lần cuối đối với người chết.

Lễ cáo đạo lộ là lễ trình xin đường với thần giữ đường ngày mai đưa đám, đặt bàn có hương hoa và cáo ở đường lộ gần nhà (lễ này cáo ban đêm, chủ lễ là người không bịt khăn tang). Sáng ngày di quan có lễ khiển điện và lễ triệt linh sàng.

Âm công: Trước vài ngày, tang quyến lên danh sách mời một số trợ tang để đưa linh cữu ra đồng (nghĩa trang). Bộ phận trợ tang này gồm rất nhiều người: 1 “quan” Chấp lệnh ngoại 1 “quan” Quản áp (cai giang) 1 ông giàn đồ thứ (người phân công việc) 4 vị đầu roi 50 âm công

Nếu có nhiều trướng liễn, lẵng hoa, vòng hoa…phúng điếu, số người tăng lên, tổng cộng gần cả trăm người. Những vị này có thể nhờ những người trong Họ, Phái và bà con xóm giềng. Lệ làng không nhận thù lao. Thông thường tang quyến dù giàu hay nghèo đều có tổ chức ăn uống. Có thể dùng bữa trước khi di quan hoặc sau khi chôn cất xong. Sau khi chôn cất xong, về nhà làm lễ “phản khóc” (hết khóc) là công việc đã xong, có thể ăn uống giải lao.

Giàn đám Trước một ngày đưa đám, mọi người tập trung làm mọi công việc. Cánh đàn ông đi khuân vác giàn đám về kết. Giàn đám làm bằng gỗ tốt, có hai đòn bông to dài, đà chịu lực, nhiều xà bang và một khung gỗ hình chữ nhật, trang hoàng lộng lẫy để che quan tài. Quan tài được đặt bàn chính giữa bàn đám, chung quanh gồm 8 hoặc 10 bụp (chỗ âm công gánh). Người trước cách người sau nửa bước chân, nên khi gánh đám không thể đi nhanh vì sợ vấp chân người trước. Vì vậy phải đi chậm rãi “như đưa đám mệ”. Nhìn từ xa như con rết khổng lồ chuyển động.

Di quan: Ban âm công gồm: 1 Cai giang thắt lưng màu đỏ, cầm hai cây đèn sáp lớn và một cặp sanh (trắc) 4 ông Đầu roi thắt lưng màu trắng, cầm một cây đèn sáp nhỏ và một cây cờ nheo (cờ ba cạnh) 16 âm công hoặc nhiều hơn cầm mỗi người một cây đèn sáp nhỏ, áo dài đen quần dài trắng

Sau khi nghe gióng lệnh kiểng của ông chấp lệnh, ông Cai Giang đánh ba hồi trắc và ba tiếng báo hiệu giờ di quan bắt đầu. Ban âm công sắp một hàng dài trước sân theo thứ tự như trên, đi vào nhà, vòng quanh quan tài một vòng (theo chiều kim đồng hồ) rồi ra sân, mục đích quan sát trước chỗ đặt quan tài để khi di quan khỏi bỡ ngỡ. Lúc này gia chủ để một mâm cau trầu và tiền bạc trên chiếc bàn đặt trước linh cữu gọi là lễ bái quan. Sau khi bái quan, âm công nhận lễ vật này.

Ra đến sân, âm công thắp tất cả đèn sáp (vẫn giữ một hàng dọc và thứ tự như trước). Từ đó, Cai Giang cất cặp sanh, im lặng ra lệnh bằng đèn sáp, không ra lệnh bằng tiếng. Cai Giang dẫn đầu đoàn âm công đi năm bảy vòng (theo chiều kim đồng hồ) trong sân như rắn bò (liên xà). Sau cùng, một vòng lớn rồi tiến thẳng vào nhà đến trước quan tài. Cai Giang dừng lại trước quan tài. Đoàn âm công tiếp tục rẽ phải, rẽ trái chia làm hai hàng đi ra; dẫn đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi.

Cai Giang bấy giờ đứng trước mặt bốn hàng âm công. Đứng đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi, đồng làm lễ bái quan một lạy. Tang chủ đứng hai bên linh cữu lạy ra một lạy (lạy trả). Bái quan xong, hai hàng âm công ở giữa quay đằng sau mà bước tới (đi ra) để chắp vào đuôi của hai hàng ở hai bên, làm thành hai hàng dài, đầu đầu và đầu đuôi của một hàng có một ông đầu roi. Cai Giang bấy giơ giơ cao đèn sáp ra lệnh hàng bên phải, hàng bên trái vào đứng hai bên quan tài để di quan.

Quan tài vừa ra khỏi nhà, một người ở trong nhà dùng tấm ngói hoặc om đất, dĩa đất ném mạnh xuống đất tạo ra tiếng động lớn “choảng” sau đó rút một tấm tồn trên mái nhà hoặc rạp, mục đích để hồn ma đi ra không vương vấn lại nhà. Quan tài ra đến sân, tất cả đoàn âm công đều tắt đèn. Cai Giang dùng trắc và tiếng hô để ra lệnh âm công đưa quan tài vào bàn địa dư (bàn để linh cữu). Bốn góc quan tài có bốn ông Đầu roi giúp Cai Giang ra lệnh nâng góc quan tài lên hay hạ xuống hoặc chuyển lệnh của Cai Giang đến âm công.

Trước khi khởi hành, Cai Giang thường báo cho âm công biết lộ trình đến huyệt mả xa gần, dễ đi hay trắc trở khó khăn, khuyên cố gắng bình tĩnh. Lệnh ra dõng dạc và nghiêm, thường dùng các từ sau đây: “Tiền hậu bơi hai đốc (âm công dạ…)”. Dãy trong cho chí dãy ngoài, tất cả nghe cho rõ, nghe cho lọt trắc. Gõ nhịp dắp hai tiếng trắc là đi. Gõ một tiếng là đứng lại. Bốn góc có bốn ông Đầu roi trợ giúp. Cho một lớp eo mà eo giả, eo thật. Không xách, không nhún, khom lưng, chống đầu gối, tay bóp nài. Cho một lớp vai. Đi chậm chậm, rà chân. Cai Giang tùy ý điều khiển, sắp xếp hiệu lệnh. Nghề này không có sách vở dạy, miễn sao âm công gánh cho đầm, hạ huyệt cho êm là nhiệm vụ chính của Cai Giang. Đưa đám ra đồng đi xa hay gần đều phải gánh bộ. Đoàn người tiễn đưa rất đông. Nếu đường xa phải thay đổi lớp âm công dự bị gánh. Linh cữu ngang qua các nhà thờ lớn, đình chùa, miếu, Cai Giang cho dừng lại, ra lệnh ra vai xuống eo để tỏ sự tôn kính. Qua khỏi, mới lên vai đi tiếp. Người trợ tang dùng lọng che phần cổng của am miếu cho đến khi linh cữu qua hết mới cất đi. Việc di quan từ trong nhà ra xe là quan trọng, nhộn nhịp, người nào cũng khẩn trương. Người đi xem nô nức như xem hội múa hoa đăng.

Tế đạo trung: Đi được nửa đường làm lễ tế đạo trung, cũng là dịp để âm công nghỉ ngơi. Thân bằng quyến thuộc ai chưa đi điếu được, đây cũng là dịp để phúng điếu vì sau khi chôn cất xong không được đi điếu nữa.

Hạ khoáng – hạ huyệt Huyệt đào chôn phải thâm thổ 3 tấc đất, nghĩa là đến lớp đất nguyên sơ (mặt đất cũ) phải đào sâu thêm ba tấc nữa (30cm). Vì chôn trên cao, xương bị khô; chôn quá sâu, xương bị mục. Chôn sâu ba tấc đất là đủ khí âm dương, là tốt. Trước khi hạ huyệt, có lễ trị huyệt để đuổi tà ma ẩn núp trong huyệt.

Lễ tạ thổ thần ở nghĩa địa: Chôn xong, làm lễ tạ thổ thần tại mả gồm bông hoa, bộ áo thổ thần. Chủ lễ là người không bịt khăn tang.

Mở cửa mả: Ba ngày sau, tính từ ngày đưa linh cữu ra đồng, làm lễ mở cửa mả để linh hồn người chết về với gia đình nhờ rải giấy vàng trên mỗi đoạn đường từ nhà đến huyệt mả trong ngày đưa linh cữu ra nghĩa trang nên linh hồn người chết biết được đường về nhà khi mở cửa mả. Làm lễ mở cửa mả là thầy cúng dùng con dao vạch lên phía chân nấm mả ba đường dọc và đọc thần chú (mỗi lần vạch dao là đọc một câu thần chú). -Nhất trung, khai môn mộ, hung thần tốc xuất; -Nhị tả, khai môn mộ, vong giả an cư; -Tam hữu, khai môn mộ, gia phước an khang. Dịch nghĩa: -Một vạch ở giữa, mở cửa mả thần hung dữ phải ra mau. -Vạch thứ hai phía trái, mở cửa mả, người mất ở yên ổn. – Vạch thứ hai phía phải, mở cửa mả, gia đình được phước yên lành.

.

(Nguồn: khamphahue.com)

.

.

Tục Lệ Cúng Đất Của Người Dân Huế

Tục lệ cúng đất của người dân Huế

Cúng đất còn có tên là lễ ” Tạ thổ kỳ yên”. Cúng đất là lễ dâng cúng cho các vị thần Đất và các vị thần phối thuộc, mỗi năm diễn ra hai lần vào một ngày tốt trong tháng 2 và tháng 8 âm lịch.

Vậy thì vì sao ở Huế có tục lệ cúng đất mà những nơi khác lại không có? Tương truyền, khi Công chúa Huyền Trân được gả cho vua Chế Mân của nước Chiêm Thành vào năm 1306, Đại Việt ta nhận được sính lễ từ vua Chăm là vùng đất 2 châu: Châu Ô, Châu Lý (Châu Rí). Tính theo ngày nay là vùng đất phía Nam tỉnh Quảng Bình cho đến phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, cư dân ở vùng đất này vốn là cư dân của Vương quốc Chămpa, theo suy nghĩ của người Đại Việt lúc bấy giờ vùng đất này là vùng đất xa lạ, họ chưa quen thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình cho nên khi vào đây lập nghiệp họ mang trong mình sự tôn kính đối với người dân bản địa và các vị thần linh ở đây. Từ đó, họ có lệ cúng Đất như là việc mong thần linh và những linh hồn người bản địa từng cư ngụ ở đây phù hộ độ trì, chấp thuận cho sự có mặt làm ăn sinh sống của cư dân Đại Việt ta.

Qua đó, ta thấy rằng Lễ cúng Đất không chỉ có ở Huế mà cả vùng từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi. Nhưng ngày nay, ở các vùng đó vì nhiều lí do họ không còn cúng đều như ở Huế nữa. Là vùng đất xứ Kinh kỳ đầy tâm linh, Huế vẫn giữ nét truyền thống ấy một cách đầy thành kính.

Một lễ cúng đất đầy đủ nhất có đến 3 bàn: bàn thượng, bàn trung và bàn hạ. Mỗi bàn đều có hương đèn, hoa quả, cau trầu rượu, giấy vàng mã. Bàn thượng đặt bộ áo thổ thần, vật thực gồm con gà, bát xôi, xung quanh là xôi chè. Bàn trung đặt hai bộ áo bà, năm bộ áo ngũ phương, lễ vật gồm miếng thịt heo luộc, đĩa xôi, ba đĩa cua trứng luộc chín, có miếng thịt tợ đặt lên trên và mâm cỗ cúng cơm, đặt biệt có đĩa rau khoai luộc, chén nước ruốc và xâu cá, thịt nướng. Bàn hạ đặt áo, cháo, gạo, muối, khoai, sắn, đậu lạc…Ba bàn đặt trước nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra. Danh sách dâng cúng và khấn vái gồm đất nhà cửa của gia chủ cho đến thần suối, thần giếng và tổ tiên làng xã, gia tộc. Đặc biệt là dâng cúng những cô hồn người Chăm từng cư trú, những oan hồ không ai thờ tự…

Khi gần xong lễ, gia chủ sẽ sớt một ít vật thực, và một số thực phẩm nói trên vào cái bẹ chuối gập thành hình cái đãy nhỏ cùng ít áo giấy âm binh đem treo ở góc vườn. Vàng mã thì đốt đi, cháo thánh, gạo muối vãi lên trên khi lửa đốt sắp tàn.

Lễ cúng này biểu tỏ nét đẹp trong tâm thức của cư dân Huế nhằm cầu nguyện âm siêu, dương thái, cuộc sống an lành.

Theo Thiêu Trúc (KPH)

Tục Cúng ‘Ma Khô’ Đầy Tình Cảm Của Người Mông

Khi một người Kinh mất đi, chôn đủ ngày đủ tháng thì gia đình sẽ tổ chức đám giỗ, như giỗ 49 ngày hay 100 ngày. Dân tộc Mông cũng tổ chức đám giỗ như thế nhưng nói theo cách của dân tộc Mông gọi là làm “ma khô”. Từ “ma” nghĩa là “đangz”, từ “khô” nghĩa là “kruôr”, nói tiếng Kinh cho dễ hiểu đó là “ma khô” nhưng thực chất đó là giỗ đầu. Mỗi dòng họ của dân tộc Mông có tục làm “ma khô” khác nhau. Tùy theo dòng họ, điều kiện kinh tế mà làm “ma khô” to hay nhỏ, có khi là mổ một đôi gà, hay một con lợn để cúng mong sao linh hồn người chết được siêu thoát.

Người nhà làm lễ cúng ma khô để bày tỏ tình cảm với người đã chết, nhờ thầy cúng hỏi xem con ma đã tìm gặp được tổ tiên chưa. Nếu chưa thì phải chỉ đường cho ma đi, vì nếu còn ở lại quanh quẩn nơi này sợ sẽ ảnh hưởng đến việc làm ăn, sức khỏe của những người thân trong gia đình.

Để chuẩn bị lễ cúng “ma khô”, người Mông dùng một chiếc mẹt nhỏ đựng đầy mèn mén (thức ăn chính của người Mông làm từ ngô xay) để lẫn với thịt luộc, chuẩn bị một chiếc bánh gạo tẻ vùi dưới mèn mén, lấy cây giang hoặc ngọn tre non dựng thành khuôn hình và trùm lên đó một chiếc áo cũ của người đã khuất. Nhân vật “ma khô” được đặt giữa nhà để họ hàng và làng xóm sang thăm hỏi, phúng viếng trước khi mang ra ngoài đồng.

Cũng như các dân tộc khác, người Mông thường mang gạo, rượu, lợn, gà, vàng hương, giấy mã và cả tiền sang phúng viếng. Những đồ lễ này sẽ được ghi vào sổ, thông báo với người chết và cả gia đình người chết, như một nhắc nhở về sự gắn bó của cộng đồng và nhắc nhở gia chủ phải ghi nhớ ơn nghĩa của bản làng.

Người Mông cúng ma với khèn và trống. Theo tục lệ, những điệu nhạc và điệu trống sẽ được chơi trong suốt thời gian “ma khô” được cúng tế, thăm viếng. Thầy cúng sẽ hát những bài hát truyền thống bằng tiếng Mông, với ý nghĩa ca ngợi tổ tiên, ca ngợi sự sống. Những ca từ bày tỏ tình cảm thương mến với người đã chết, đồng thời cũng răn dạy, dặn dò những người còn sống không được bi lụy, phải coi trọng công việc và làm ăn chăm chỉ sẽ giúp họ thoát khỏi đói nghèo.

Âm nhạc và ca từ trong lễ cúng ma chậm rãi và nhẹ nhàng nhưng không hề mang không khí đau thương, bi ai, chết chóc, ngược lại, như một lời tâm sự rủ rỉ, nhắn nhủ những người còn sống càng phải biết yêu thương, đùm bọc và che chở nhau.

Quá trình cúng tế “ma khô” trong nhà sẽ diễn ra cho đến khi thầy cúng hỏi ý kiến “con ma” đồng ý dời ra ngoài đồng, bằng cách tung hai nửa một gióng tre, nếu hai mặt đối lập nhau tức “con ma” đồng ý. Suốt thời gian đó, người làng sẽ qua lại thăm nom, trò chuyện, cánh đàn ông uống rượu, cánh đàn bà, con trẻ đi ra đi vào, đứng quanh cửa nhà, cửa sổ, đầu hồi, hàng hiên. Một số người khác mổ bò, mổ lợn, chuẩn bị nấu thắng cố để sau khi hoàn tất lễ cúng ma cả làng sẽ cùng ăn cỗ cúng.

Người Mông tươi cười hớn hở khi “ma khô” đồng ý ra khỏi nhà. Đi đầu đoàn rước là những người thân trong gia đình, tiếp đến là thầy trống, thầy khèn, một phụ nữ cầm bó đuốc rơm, vừa đi vừa huơ tay như thể mở đường cho “ma khô”. Một người đàn ông nâng biểu tượng “con ma” có mặc chiếc áo cũ của người đã khuất, sau lưng bà con dân làng đi thành một đoàn dài.

Đám rước tiến về phía thung lũng, đi rất nhanh, vừa đi vừa đánh trống, thổi khèn, hoa lửa. Đến gần ngôi mộ chôn người chết thì dừng lại, hạ “ma khô” xuống đất, tiến hành mời rượu và lại tung hai nửa gióng tre để hỏi lại người chết có thật sự muốn đi về với tổ tiên không. Việc hỏi ý kiến này diễn ra vài lần, mỗi lần không thành công (tức hai nửa gióng tre cùng mặt – giống như việc tung đồng xu) mọi người lại ồ lên.

Đến khi xin được thì tất cả đều cười rất to, hỉ hả và “ma khô” lập tức được tung lên, bay ra xa. Lúc này người chết đã tìm được đường về với tổ tiên, thật sự rời khỏi mảnh đất này.

Người Mông quan niệm cho trẻ con ăn một chút mèn mén, thịt lợn và bánh gạo vừa cúng tế “ma khô” thì trẻ con sẽ hay ăn chóng lớn, ngoan ngoãn, dễ nuôi. Do vậy, vài người dân trong vùng sẽ mang bánh gạo về hoặc cho trẻ con ăn một chút đồ cúng tế để cầu may. Lễ rước “ma khô” ra đồng diễn ra rất nhanh, sau khi hoàn tất, mọi người đều nhanh chóng trở về nhà gia chủ và tham gia bữa tiệc cúng ma.

Nguồn: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Phong Tục Cưới Hỏi Của Người Bình Định

Phong tục cưới hỏi của người Bình Định ngày nay đã có nhiều thay đổi so với thời xưa. Nó được rút gọn hơn về nghi lễ và hiện đại hơn về các nghi thức.

Phong tục cưới hỏi của người Bình Định trước kia và hiện nay

Trước đây, người dân trong tỉnh thường tổ chức cưới hỏi theo phong tục cưới hỏi của người Bình Định thời xưa truyền lại. Nó bao gồm đến 6 lễ trong một đám cưới. Đó chính là: Lễ Thăm Nhà, Lễ Nói, Lễ Hỏi, Lễ Đại Nạp, Lễ cưới, Lễ rước dâu, lễ hồi dâu. Từ năm 2018 cho đến nay, thức hiện nếp sống văn minh thì người Bình Định đã rút gọn các nghi thức để chỉ còn làm từ 2 đến 3 lễ trong một đám cưới. Nhiều nghi lễ đã được nhập và gộp lại thành 1 để giản đơn hóa.

Từ đó, phong tuc cưới hỏi của người Bình Định ngày nay đã có nhiều thay đổi so với xưa kia. Những sự thay đổi này phù hợp với sự tiến bộ trong đời sống và phong tục tập quán của họ. Các phong tục cưới hỏi của người Bình Định nghiêng về tính xã hội và đi vào dân gian nhiều hơn là thể hiện những phong tục cổ xưa. Trong phong tục đã có nhiều lệ ước thoải mái cho trai gái nhiều hơn và chuyện sui gia trao đổi bàn chuyện cưới hỏi cho con cái cũng không quá nặng, câu nệ, phép tắc như thời xưa.

Hiện nay, đám cưới của người Bình Định có tính cởi mở nhiều và ngày càng được đơn giản hóa. Nhất là sau khi thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới xin.

Vào nữa đầu thế kỷ XX, những đám cưới ở Bình Định bắt đầu được tổ chức theo kiểu tân thời. Nó chịu ảnh hưởng bởi nền văn hoa từ phương Tây du nhập vào Việt Nam. Ở khu vực thành thị, có sự kết hợp giữa phong tục truyền thống và những nét tân thời trong đám cưới. Lời chúc đám cưới mong muốn đôi tân lang, tân nương sẽ có cuộc sống hạnh phúc cho đến khi “Răng long đầu bạc”.

Đám cưới của người Bình Định trước đây đều phải trải qua các bước bắn tin, lễ dạm ngõ hoặc lễ vấn danh sau đó mới tới lễ hỏi hay lễ cưới. Ngày nay, các lễ này đều hầu như không còn được tổ chức, mà được trao cho đôi trai gái tự quyết định. Cha mẹ của hai bên chấp thuận thì họ sẽ trao đổi với nhau để thống nhất ngày tổ chức đám cưới.

Lễ đại nạp và lễ hỏi trong phong tục cưới hỏi của người Bình Định

Lễ hỏi của người Bình Định cho đến ngày hôm nay vẫn còn được giữ gìn và phát huy. Để tiến hành lễ hỏi, ngoài quá trình chuẩn bị họ còn phải thống nhất được ngày giờ tổ chức lễ cưới nữa.

Trong giai đoạn này, còn có một nghi thức nữa trong đám cưới của người Bình Định chính là lễ đại nạp. Lễ đại nạp còn gọi là lễ nạp tài. Ngoài ra tùy theo địa phương, nó còn được gọi với những tên gọi khác là Lễ Đen hoặc là Lễ Nát tùy theo từng vùng miền. Trong lễ này, nhà trai sẽ trao cho nhà gái một khoản tiền nhỏ gọi là tiền nạp tài, cùng với những lễ vật cưới. Lễ Nạp Tài thường được diễn ra trong ngày đám hỏi hoặc ngày rước dâu.

Ý nghĩa của những khoản tiền và món quà này là để bày tỏ lòng biết ơn của bên nhà trai đối với bên nhà gái vì đã có công sinh thành và dưỡng dục cô dâu.

Ngày nay, nghi thức này đã được đơn giản hơn. Người ta thường gộp lễ đại nạp và lễ hỏi để tổ chức một lần.

Sính lễ cưới của người Bình Định

Cũng giống sính lễ cưới của các vùng miền khác của Việt Nam, sính lễ cưới quan trọng nhất và không thể thiếu trong bất kỳ đám cưới nào của người Bình Định chính là trầu cau. Sỡ dĩ trầu cau trở thành sính lễ cưới quan trọng của người Bình Định là do nó chính là biểu tượng của tình yêu đôi lứa và tình nghĩa vợ chồng, tình cảm gia đình.

Trong những câu chuyện kể từ thời xưa lưu truyền đến nay vẫn còn những câu thơ nói về tình nghĩa vợ chồng và ý nghĩa trầu cau:

Miếng trầu anh kết làm đôiLá trầu là vợ, cau tươi là chồngTrầu xanh, cau trắng, chay hồngVôi pha với nước, thuốc hồng với duyên.

Bài thơ này ví người chồng như quả cau, được sinh ra từ cây cau có thân tròn thẳng đứng. Nó đại diện cho người quân tử. Trái ngược lại là chiếc lá cau hơi bầu bầu là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu khó. Khi người xưa nhai trầu với cau thì họ thường giã nó chung với vôi tạo nên màu đỏ thắm tượng trưng cho tấm lòng son sắc, thủy chung của đôi vợ chồng

một số các sính lễ khác nữa. Đối với người Bình Định, tùy thuộc vào gia đình có khá giả không mà sính lễ cưới nhiều hay ít chứ không bắt buộc phải có đầy đủ như một số địa phương khác.

Các sính lễ cưới phổ biến trong phong tục cưới hỏi của người Bình Định thường gồm các tráp trà rượu, tráp trái cây, tráp bánh. Ngoài ra còn có tiền nạp tài và nữ trang cho cô dâu nữa.

Đám cưới của người Bình Định có sự khác biệt về phong tục ở vùng nông thôn và khu vực thành thị. Thông thường ở những vùng nông thôn khi họ hàng nhà trai đến nhà gái thì làm lễ gia tiên, tuyên bố lý do, xin rước dâu … Nhà gái đến nhà trai thì có thêm mục gửi gắm con gái. Đám cưới của người Bình Định ở khu vực nông thôn được tổ chức ôn hòa xen lẫn giữa phong tục truyền thống lẫn hiện đại

Đám cưới của người Bình Định ở khu vực thành thị ngày nay, ngoài nghi lễ làm ở hai bên nhà trai và nhà gái thì thường còn mời khách dự tiệc cưới ở các nhà hàng tiệc cưới nữa. Những đám cưới dạng này thường được tổ chức rất xa hoa và tốn kém.

Trang phục cưới của người Bình Định

Chịu ảnh hưởng của văn hóa phương tây du nhập vào Việt Nam, hiện nay, đa phần các bạn trẻ của tỉnh Bình Định đều chọn âu phục cho đám cưới của mình. Cô dâu chọn những kiểu váy cưới phương tây xòa phồng kiểu công chúa hoặc váy cưới đuôi dài. Bên cạnh đó chú rể diện lên mình bộ áo vest với cà vạt hợp gu.

đều chọn áo vest như chú rể. Các bà mẹ trái ngược lại thích chọn chiếc áo dài.

Cách xem ngày và kén giờ cưới của người Bình Định

Ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên an, thiên hỷ … hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn … thì đối với người Bình Định, những ngày đó chính là những ngày tốt.

Ngày nào có những sao hung tinh như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì đối với người Bình Định, những ngày đó chính là những ngày xấu.

Người Bình Định kiêng kỵ nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, không chỉ trong đám cưới mà làm bất cứ việc gì người Bình Định cũng tránh những ngày này. Mỗi một tháng có ba ngày được người Bình Định gọi đó là 3 ngày nguyệt kỵ. Đó chính là ngày năm, ngày mười bốn và ngày hai mươi ba. Trong ba ngày này, làm việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng.

Trong một năm lại có 13 ngày, người Bình Định gọi 13 ngày này là ngày Dương Công Kỵ Nhật. Làm bất kỳ chuyện gì cũng phải tránh những ngày này. Những ngày này chính là:

       –  Ngày 13 tháng Giêng.       –  Ngày 11 tháng hai.       –  Ngày 9 tháng ba       –  Ngày 7 tháng tư       –  Ngày 5 tháng năm       –  Ngày 3 tháng sáu       –  Ngày 8 và 29 tháng bảy       –  Ngày 27 tháng tám       –  Ngày 25 tháng chín       –  Ngày 23 tháng mười       –  Ngày 21 tháng mười một       –  Ngày 19 tháng chạp

Còn như kén giờ thì lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới … thường đều kén lấy giờ hoàng đạo. Phép tính giờ hoàng đạo của người Bình Định  dựa vào 4 câu thơ sau:

Dần, Thân gia Tý, Mão Dậu DầnThìn, Tuấn tầm Thìn: Tý Ngọ Thân;Tỵ Hợi thiên cương tầm Ngọ VịSửu Mùi tòng Tuất định kỳ chân.

Lại cần phải nhớ hai câu:

Đạo Viễn Kỷ thời thông đạtLộ dao hà nhật hoàn trình

Lúc tính giờ trước hết phải biết đó là ngày gì. Sau đó dùng 2 câu thơ dưới để tính ra giờ ở 4 câu thơ trên.Nếu tính giờ mà gặp phải cung nào có chữ “đạo, viễn, thông , đạt ,dao hoàn” thì giờ ấy là giờ hoàng đạo.

Nếu thấy bài viết hay , chia sẻ ngay với bạn bè

Pinterest

Linkedin

Tumblr

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phong Tục Ma Chay Của Người Huế trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!