Đề Xuất 6/2023 # Sớ Hội Đồng Thánh Mẫu ( Thánh Cảnh Cao Diêu ) # Top 14 Like | Herodota.com

Đề Xuất 6/2023 # Sớ Hội Đồng Thánh Mẫu ( Thánh Cảnh Cao Diêu ) # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Sớ Hội Đồng Thánh Mẫu ( Thánh Cảnh Cao Diêu ) mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thánh đức nguy nguy Tiên cung đảng đảng , tỷ đệ tử biền trăng bách Phúc , nam sơn thọ khảo ư quy linh

SỚ HỘI ĐỒNG THÁNH MẪU

( Thánh cảnh cao diêu )

Phục dĩ .

Thánh cảnh cao diêu khể thủ cầu vinh hoa phú quý , Thần Tiên quảng đại thành tâm đão Phúc thọ khang ninh dục cầu trường sinh bất lão tu bằng Tiên Thánh phò trì

Sớ vị : Việt Nam Quốc …………….. gia cư phụng Phật Thánh thượng hương …… Tứ phủ công đồng ngự tiền chiếu giám . Ngôn niệm : Sinh phùng quý thế hạnh hoạch nhơn luân , hà càn khôn chí đại chí cao công hoành phú tải , cảm Tiên Thánh tối linh tối sảng đức quảng chiếu lâm , tư giả bản nguyệt cát nhật liệt trần hương hoa đăng trà phẩm , kim tắc cẩn cụ sớ văn hòa nam bái bạch . – Nam Mô Đại Từ Bi Cứu Khổ Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Chứng Minh . Cung phụng : Tam nguyên , Tam phẩm , Tam quan , Tam phủ công đồng , Tứ phủ Đại Đế ngọc bệ hạ , Thiên Tiên , Địa Tiên , Sơn Tiên , Thủy Tiên Tôn Vị Thánh Mẫu Châu Cung Hạ , Tây Cung Vương Mẫu Bản Mạng Chúa Tiên , Thượng Thiên Thiên Y A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Mẫu Châu Cung Hạ , Quản Cai Sơn Nhạc Cửu Châu Lê Mại Đại Vương , Thượng Thiên , Thượng ngàn , Trung Thiên , Thủy Phủ Chư vị Đức Chầu Thánh Nữ , Ngũ Hành Lục Động Bạch Thố Kim Tinh Mộc tinh Thánh Nữ , Tam Động Hỏa Phong Thần Nữ Tiên Bà , Thượng Thiên Nhị Vị Trạng Nguyên Tôn Ông Tôn Thần , Thượng Thiên Thượng Ngàn Trung Thiên Thủy Phủ Chư Vị Hoàng Thái Tử , Chư Vị Công Chúa Thánh Tiền , Thượng Thiên Thượng Ngàn Trung Thiên Thủy Phủ Giám Sát Khâm Sai Thập Nhị Triều Quận , Thập Nhị Cô Nương , Tả Hữu Bá Quan Văn Võ , Thần Liêu Ngũ Lôi Linh Quan , Ngũ Hổ Đại Tướng , Thống cập trì tùng bộ hạ nhất thiết oai linh , đồng thùy chiếu giám cọng giáng cát tường . Phục nguyện : Thánh đức nguy nguy Tiên cung đảng đảng , tỷ đệ tử biền trăng bách Phúc , nam sơn thọ khảo ư quy linh , hộ toàn gia hội hiệp , thiên tường Bắc Hải thiêm trù ư hạc toán , ngưỡng lại Phật Thánh phò trì chi đại lực dã cẩn sớ .

Tuế thứ …………… niên ………….. nguyệt ………….. nhật , thời .

Thánh Mẫu Thiên Y A Na

Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Bà mẹ xứ sở hay bà chúa Ngọc, người Chiêm Thành (Chăm) gọi là Nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar), tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng rất tôn nghiêm, và đã được nhà Nguyễn – Vua Gia Long, xếp vào bậc “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần”.

Thánh mẫu Thiên Y A Na – tượng thờ tại Tháp Bà (Nha Trang)

Truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na

Văn bia viết về Bà Thiên Y A NA, tại Tháp Poh Nagar, Nha Trang, do Tiến sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản soạn ngày 05 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 ( 1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970, tóm tắt như sau:

Xưa kia tại núi Đai An ( tức Đại Điền hiện nay) có hai vợ chông ông Tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín, thường hay bị mất. Một hôm, ông rình bắt gặp một thiếu nữ trạc mười chín tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi, hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm, trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông Tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ nam, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả, rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay thơm ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiên, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nổi không giở lên, Thái tử lấy tay nhắc thử. Chàng hết sức lạ lùng, vì thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái tử thấy có bóng người con gái thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương nhè nhẹ từ khúc kỳ nam bay ra. Chàng quyết rình xem, suốt mấy đêm liền, không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái tử về cung và cho biết rõ lai lịch. Giai nhân ấy chính là Bà Thiên Y A Na.

Thái tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai quan bói cát hung. Bói trúng quê “đại cát”, liền cử lễ thành hôn.

Vợ chồng Thái tử ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên là Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

Thời gian qua, sống trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Bà Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông Tiều đã qua đời. Bà Thiên Y bèn đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn lạc hậu, Bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy dân cày cấy, kéo vải, dệt sợi… và đặt ra lễ nghi… Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày thêm phú túc, phong lưu. Công khai hoá của Bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ.

Rồi một năm sau, vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, Bà cùng hai con lên lưng hạc bay về Tiên.

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây Tháp tạc tượng Bà phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày Bà thăng thiên, tổ chức lễ tưởng niệm múa bóng, dâng hoa rất tôn nghiêm, long trọng.

Ở Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày, không thấy vợ, con trở về, bèn đem một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền Thái tử đến nơi thì Bà đã cởi hạc quy Tiên. Bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con Bà. Bị oan ức và đau đớn, nhân dân đã thắp hương khấn vái Bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay, đất bằng dậy sóng… đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

Theo lời người xưa truyền lại, những cụm đá ở trước cửa Tháp Bà ( tức Tháp Poh Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những tản đá đã đánh đắm đoàn thuyền Thái Tử Bắc Hải.

Dấu tích những ngôi Tháp, nền văn hoá Chămpa Ngày xưa, ở khu vực Tháp Bà, có một số tháp đã được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13. Một số công trình đã bị đổ nát, nay chỉ còn lại 4 tháp, trong đó tháp lớn nhất là Tháp Pho Nagar, thờ Mẹ Xứ Sở của người Chămpa, là người đã dạy dân Chămpa trồng lúa và các thứ hoa màu. Người Việt ở Nam Trung bộ còn gọi Nữ thần Thiên Y A NA là Bà Chúa Ngọc.

Toàn cảnh Tháp Bà Ponagar (Nha Trang) Khánh Hòa

Tháp Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi tháp nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi “Tháp Po Nagar” được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23m.

Ngôi tháp này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng Nữ thần có hình dạng của Umar, vợ của Shiva.

Ngọn tháp thứ hai ở chính giữa thờ Thần Cricamblu. Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá huỷ ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Đây chính là Tháp thờ Thái Tử Bắc Hải chồng bà Thiên Y A Na.

Ngọn tháp thứ ba ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ thần Linga, biểu hiện của thần Sandhaka. Đó là Tháp thờ Ông Tiều, nghĩa phụ của Bà Thiên Y.

Ngọn tháp thứ tư đứng phía sau tháp thờ Bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng, mà chỉ có đế thờ ( có lẽ bị thất lạc lúc Mã Lai vào cướp phá). Tháp này thờ thần Ganeca. Đó là đền thờ Công chúa Quý.

Còn hai tháp nửa, cũng ở sau lưng dãy tháp trước. Đó là tháp thờ Bà Tiều nghĩa mẫu của Bà Thiên Y và Hoàng tử Trí. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền…Cho nên Bà Tiều đưa về thờ chung cùng Ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử thờ chung với Công chúa ở tháp thứ tư.

Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sàn gỗ rộng. Vũ nữ và diễn viên ca múa trên sàn gỗ. Thần trong tháp trông ra, nhân dân đứng dưới nhìn lên.

Hàng năm, vào đêm giao thừa, một không khí kỳ thú lung linh ở khu vực Tháp Bà xuất hiện. Khi trời đất bước vào Xuân, vạn vật thay đổi chuyển vần, tiết trời đang se se lạnh, tự dưng ấm lại. Người ta cảm nhận được một mùi hương thơm phảng phất. Đây là hương kỳ nam, hương trầm từ rừng sâu thoảng đến quyện vào mùi thơm của nhang và hoa từ nhà dân chúng, và từ các chùa chung quanh bay ra, tạo thành một không gian có mùi thơm huyền bí.

Theo tiếng Chăm, Pô Yang Inư Nagar Kaut Hara có nghiã là Thiên Ya Na Thánh Mẫu là Nữ thần Mẹ Xứ Sở của bộ tộc Kaut. Pô là từ danh xưng dùng cho thần thánh thiêng liêng, được dịch ra từ Thiên. Yang có nghĩa là Trời, Thánh Thần ( nhiều dân tộc Tây Nguyên cũng dùng âm tiếng với ý nghĩa như vậy hoặc đọc trại là Giàng, theo người Êđê ở vùng Buôn Ma Thuột, ĐakLak và Khánh Hòa. Inư là mẹ đã mất, Nagar là xứ sở, đất nước) Inư Nagar đã được phiên âm Việt là YaNa. Kaut Hara là thị tộc Kaut.

Hình tượng Poh Nagar:

Tượng Bà Thiên Y A Na, tượng chính được thờ ở khu Tháp là tượng nữ thần bằng đá xanh nguyên khối thể hiện Mẹ Xứ Sở ngồi xếp bằng trên đài sen, tượng này là một kiệt tác nghệ thuật điêu khắc của người Chămpa xưa, rực rỡ trong quá khứ, vào thế kỷ thứ XI.

Toàn bộ tượng và bệ thờ cao 2,60m, đặt giữa lòng ngôi tháp chính cao 22,40m, nếu nhìn chính diện, tượng có đến 10 cánh tay, gồm 2 cánh chính với 8 cánh phụ ở đằng sau phù điêu hình lá bồ đề gắn liền với tượng. Đây là sự biểu hiện tính toàn năng.

Hai cánh tay chính đặt trên đầu gối, bàn tay trái mở ra với ý nghĩa ban phát, bàn tay phải dựng đứng, lòng bàn tay ngửa ra trước, trong tư thế trấn an. Ý nghĩa chung là đem lại sự bình an và ban hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Tám cánh tay phụ gồm có mỗi tay cầm một vật phụ khác nhau như: đoản kiếm, mũi tên, vòng mặt trời Sakra, mũi lao, chuông nhỏ, lưỡi giáo Ankura, tù và bằng vỏ ốc, cách cung. Các cánh tay này tỏa ra hình rẻ quạt, rất sinh động. Tất cả những vật này tượng trưng cho quyền uy và trí tuệ của Nữ thần.

Pho tượng đặt trên một Yôni lớn, mỗi cạnh 150cm, gồm nhiều lớp đá chồng khít lên nhau như được đẽo gọt từ nguyên khối. Toàn thân tượng cao 154cm, ngực trần, hai bầu vú căng tròn, bụng có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đã trải qua nhiều kỳ sinh nở, bên dưới mặc một chiếc xà rông. Toàn bộ khối tượng với đường nét, tinh tế, uyển chuyển, thanh thoát, đầy sinh lực, gây cho người nhìn một cảm giác gần gũi mà vẫn giữ được vẻ tôn nghiêm.

Truyền thuyết của người Chămpa

Theo truyền thuyết của người Chămpa, Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa Bà vào bến sông Yjatranở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước Bà.

Khi Bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân Bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…

Nhiều phép thuật, Bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của Bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng Bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép:

1. Nữ thần Xứ Trầm hương: Pô Nagar Galâu. 2. Nữ thần vùng Phan Rang: Pô Tdara Nai Anaith. 3. Nữ thần vùng Phan Thiết: Pô Bia Tikuk.

Sự tích Nữ thần Poh Nagar và sự tích Bà Thiên Y A NA thật khác hẳn nhau.

Sụ tích Nữ thần Poh Nagar của người Chiêm Thành phản ánh chế độ mẫu hệ của người Chăm ngày trước.

Sự tích Bà Thiên Y A Na của người Việt biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm, thấm đẩm tính nhân văn và cho chúng ta thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình cảm gia đình rất nhiều. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Lễ hội Am Chúa

Lễ hội Am Chúa được tổ chức từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Am Chúa, núi Đại An, thôn Đại Điền Trung 1, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Đây là dịp sinh hoạt văn hóa tâm linh, để người dân Khánh Hòa nói riêng, khách thập phương cả nước nói chung thể hiện tấm lòng “Uống nước nhớ nguồn”. Nhớ ơn Bà Mẹ Xứ Sở đã dạy cho dân Khánh Hòa biết cày cấy, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải…

Thánh Mẫu Thiên Y A Na – Bà Mẹ xứ sở đã khai sáng và truyền dạy cho dân chúng cách làm ăn, sinh sống. Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Y A Na được bắt nguồn từ tục thờ Bà Ponagar của người Chăm. Hay nói đúng hơn, những người Việt đến định cư ở đất này đã Việt hoá tục thờ Bà Mẹ xứ sở của người Chăm bằng truyền thuyết về Bà Thiên Y A Na giáng trần tại núi Đại An và hiển thánh ở Tháp Bà – Nha Trang.

Đến nay, ở Khánh Hoà vẫn lưu truyền câu nói: “Am Chúa hiển nhân, Tháp Bà hiển thánh” như một lời khẳng định về sự nối liền giữa di tích Am Chúa với Tháp Bà Ponagar.

Đặc biệt, thuộc thiền phái Lâm Tế đời thứ 36, đệ tử của Tổ Thiệt Vinh – Bửu Hạnh khai sơn Sắc tứ Viên Tịnh đời thứ 35 dòng thiền Lâm Tế khai sơn Tổ đình Vạn Thiện ở núi Phụng Thuỳ Sơn (Diên Khánh). Tổ Khai sơn Am Chúa (Diên Khánh) là Thiền sư Linh Phù – Tế Cảm, tự Thiện Khoáng,

Theo Chánh pháp nhãn tạng hiện đang thờ tại bàn Tổ chùa Tổ Vạn Thiện. Căn cứ vào bia tháp và Tháp Tổ tại khu vườn tháp chùa Tổ Vạn Thiện (Diên Khánh) Thiền sư Linh Phù là vị Tổ khai sáng Am chúa tại núi Đại An, Đại Điền. vào khoảng đời Vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786).

Am Chúa là một di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Trầm Hương (Khánh Hòa), gắn liền với tục thờ Thánh Mẫu Thiên Y. Cùng với truyền thuyết về Thiên Y Thánh Mẫu, di tích Am Chúa đã thể hiện rõ nét sự giao lưu văn hoá Việt – Chăm. Với nhiều giá trị văn hoá và lịch sử cách mạng, năm 1999 Am Chúa đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Lễ hội Tháp Bà

Lễ hội Tháp Bà Poh Nagar tại Nha Trang diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội này đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng là một trong 16 lễ hội quốc gia vào năm 2001. Những năm gần đây, Lễ hội Tháp Bà được tỉnh Khánh Hòa giao cho Sở Văn hóa Thông tin tổ chức.

Hiện nay, dân chúng Khánh Hoà, Nha Trang thờ kính Bà Thiên Y A Na, Bà Mẹ Xứ sở tại Tháp Bà Poh Nagar, và thường xuyên đi lễ Bà để cầu nguyện cho quốc thái, dân an, gia đình an lạc. Tháp Bà Poh Nagar không chí là nơi thờ phụng tôn nghiêm mà còn là địa chỉ du lịch văn hoá tâm linh đặc sắc, du khách trong nước hay nước ngoài có dịp đặt chân đến thành phố Nha Trang thơ mộng, vừa được Chính phủ công nhận Thành phố Đô thị loại 1, không thể không đến viếng Tháp Bà và cầu tài, cầu lộc, cầu gia đạo bình an.

Trí Bửu

Bài Cúng Lễ Thánh Mẫu

Văn khấn lễ Thánh Mẫu

Văn khấn lễ Thánh Mẫu và văn khấn Mẫu Thượng Ngàn được thờ cúng tại Đình, Đền, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu. Sau đây là 2 bài khấn chi tiết cho các bạn cùng tham khảo.

Ý nghĩa lễ Thánh mẫu

Các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

Sau đây là bài văn khấn lễ Thánh Mẫu và văn khấn lễ Mẫu Thượng Ngàn.

Sắm lễ ban thờ mẫu

Theo phong tục của dân tộc ta khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên mang những lễ vật. Lễ vật có thể to hoặc nhỏ, ít hoặc nhiều không quan trọng mà tùy vào tâm của người mang lễ vật cầu khấn. Bạn có thể chuẩn bị sắn các lễ chay như hương, hoa quả, oản để đang hương cũng được, bạn cũng có thể mua tại nơi thờ Thánh Mẫu.

Lễ vật mà bạn nên chuẩn bị bao gồm:

Lễ Chay: trong lễ chay bạn cần chuẩn bị hương hoa, trà, quả, phẩm oản… để dùng khi lễ ban Phật, Bồ Tát. Lễ chay cũng thường được dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

Lễ Mặn: đồ trong lễ mặn bao gồm: đồ chay có hình gà, lợn, giò, chả…Vì trong khi tạ lễ thì nên ăn chay.

Lễ đồ sống: trong lễ đồ sống không được dùng trứng sống, gạo sống, muối hoặc thịt sống tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ. Điều này phải nắm được để kiêng kị.

Cỗ sơn trang: bao gồm những đồ đặc sản chay của dân tộc. Nhưng không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì nên thêm vào bộ lễ vật này.

Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Trong lễ thờ này gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược…Đây là những thứ mà người ta thường làm đồ chơi cho trẻ nhỏ. Với bộ lễ vật này bạn cần chút cầu kì, đẹp mắt, xinh xắn và đựng trong những cái túi nhỏ xinh.

Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Với lễ này thì bạn phải dùng chay thì những điều bạn cầu nguyện mới linh ứng.

Chú ý: Sau khi kết thúc việc đọc văn khấn tam tòa Thánh Mẫu tại chùa và lễ tại các ban thờ thì bạn đợi hết một tuần nhanh. Trong lúc đó bạn có thể viếng thăm phong cảnh trong chùa. Bạn có thể thắp thêm 1 tuần nhang nữa nếu bạn tuần thứ nhất đã cháy hết. Nhớ rằng khi thắp nhang song thì bạn vái 3 vái trước mỗi ban thời rồi hạ sớ đên ra nơi quy định để hóa vàng. Sau khi hóa xong thì bạn mới hạ các lễ khác, nhưng nhớ là nên hạ từ ban ngoài cùng rồi vào dần ban chính.

Văn khấn lễ Thánh Mẫu

“Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Hương tử chúng con thành tâm kính lạy Đức Hiệu Thiên chí tôn kim quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế.

Kính lạy:………………………………………………….

Đức Cửu Trùng Thanh Vân lục cung công chúa.

Đức thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng công chúa, sắc phong Chế Thắng Hòa Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương Thánh mẫu.

Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.

Đức đệ tam thủy phủ, Lân nữ công chúa.

Đức đệ tứ khâm sai Thánh mẫu, tứ vị chầu hà, năm tòa quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngủ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.

Tín chủ con là:………………………………………………………………

Ngụ tại:……………………………………………………………………..

Cùng toàn thể gia đình đến nơi điện (phủ, đền)………………….. chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái, lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin các Ngài xốt thương ủng hộ, khiến cho gia đình chúng con tiêu trừ tai nạn, điều lành thường tới, điềm dữ lánh xa, hết tai ương bệnh tật trong nhà, hưởng thịnh vượng an lành mãi mãi. Tài như nước đến, lộc tựa mây về, bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có phúc lành tiếp ứng.

Lại xin: Thể đức hiếu sinh, rủ lòng cứu độ, khiến chúng con như ý sở cầu, cho hương tử tòng tâm sở nguyện.

Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.

Văn khấn Mẫu Thượng Thiên

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Hiện Thiên Chí Tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.

Con kính lạy Mẫu Thượng Thiên Đức Chí Tôn.

Hương tử con là: ……………………………..

Cùng đồng gia quyến đẳng, nam nữ tử tôn……………………

Ngụ tại: ……………………………………………

Hôm nay là ngày ………….. tháng ……………. năm ………………….

Chúng con chắp tay kính lễ khấn đầu vọng bái Mẫu Thượng Thiên. Cúi xin Thánh mẫu Thượng Thiên, rủ lòng thương xót phù hộ độ trì cho chúng con được toàn gia an khang, bách sự như ý, vạn sự tốt lành.

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Văn khấn lễ Mẫu Thượng Ngàn

“Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Hương tử chúng con dốc lòng kính lạy Đức chúa thượng ngàn đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Đại Mại Vương ngọc điện hạ.

Kính lạy:………………………………………………………………..

Đức Thượng ngàn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh, cai quản tám mươi mốt cửa rừng trong cõi Nam giao.

Chư tiên, chư thánh chư thần, bát bộ sơn trang, mười hai tiên nương, văn võ thị vệ, thánh cô thánh cậu, ngũ hổ bạch xà đại tướng.

Hương tử con là:…………………………………………………….

Ngụ tại:………………………………………………………………….

Nhân tiết…………….. chúng con thân đến………………. phủ chúa trên ngàn, đối nén tâm hương kính dâng lễ vật, mội dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện. Cúi xin lượng cả bao dũng, thể đức hiếu sinh, ra tay cứu vớt, độ cho chúng con cùng cả gia quyến bốn mùa được chữ bình an, tám tiết hưng long thịnh vượng, lộc tài quảng tiến, công việc hanh thông, giải vận giải hạn, biến hung thành cát, đổi họa ra tường, như ý sở cầu, tòng tâm sở nguyện.

Sớ Cúng Quan Thánh ( Trung Huyền Nhật Nguyệt )

Phục nguyện : Hộ Quốc hộ kỳ thần dân mặc tứ sùng thành chi Phúc chỉ , tại thượng tại kỳ tả hữu trường chiêm hiễn hách chi oai linh

SỚ CÚNG QUAN THÁNH

( Trung huyền nhật nguyệt )

Phục Dĩ : Trung huyền nhật nguyệt thường chiếu như tại chi anh linh , khí tác sơn hà vĩnh ngưỡng vô cùng chi huệ trạch , nhất thành thượng đạt thốn niệm diêu thông . Sớ vị : Việt Nam Quốc …………….. gia cư phụng Phật Thánh tu hương hiến cúng ………. Thánh đức phủ giám phàm tâm . Ngôn niệm : Trung can lẫm lẫm , chánh khí đường đường , chiến Ngụy chinh Ngô , Tam Quốc anh hùng đệ nhất phong kim đô ấn thiên thu nghĩa khí vô song , tại Nho tại Đạo tại Thiền , nhân dân chiêm ngưỡng , hộ Quốc hộ Dân hộ Vật đại đại tôn sùng , tư giả cung trần tố phẩm dĩ hiến hoa diên , kiền thành phúng tụng Tiêu Tai Chư Phẩm thần Chú , tập thử thiện nhân kỳ tăng Phúc thọ , kim tắc cẩn cụ sớ văn hòa nam bái tấu . – Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế Hán Thất Hán Thọ Đình Hầu Quan Thánh Đế Quân Bồ Tát Chứng minh . Diên phụng : Linh Quan Vương Thiên Quân Thái Ất Lôi Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn . Cửu Thiên Phụ Nguyên Khai Hóa Linh Ứng Trương Tiên Đại Đế Thất Khúc ………. Thánh Thiên Tôn . Oai hiển Võ Linh Hầu Quan Thánh Thái Tử . Mã Tiền Uy Dũng Công Châu Đại Tướng Quân . Thị tùng bộ hạ nhất thiết oai linh , đồng thùy chiếu giám cọng giáng cát tường . Phục nguyện : Hộ Quốc hộ kỳ thần dân mặc tứ sùng thành chi Phúc chỉ , tại thượng tại kỳ tả hữu trường chiêm hiễn hách chi oai linh , khuôn phò đệ tử dĩ bình an , bảo hộ sinh nhân nhi cát khánh . Ngưỡng lại Thánh từ chứng minh . Cẩn sớ .

Tuế thứ ………….. niên ………………….nguyệt ………………nhật ,thời . Đệ tử chúng đẳng hòa nam thượng sớ .

Bạn đang đọc nội dung bài viết Sớ Hội Đồng Thánh Mẫu ( Thánh Cảnh Cao Diêu ) trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!