Đề Xuất 3/2023 # Taxi Tuyên Quang: Danh Bạ Số Điện Thoại Các Hãng Taxi Ở Tuyên Quang # Top 3 Like | Herodota.com

Đề Xuất 3/2023 # Taxi Tuyên Quang: Danh Bạ Số Điện Thoại Các Hãng Taxi Ở Tuyên Quang # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Taxi Tuyên Quang: Danh Bạ Số Điện Thoại Các Hãng Taxi Ở Tuyên Quang mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Taxi Tuyên Quang – Danh bạ số điện thoại các hãng taxi ở Tuyên Quang: taxi Thành Tín, Đức Thu, Hoàng Ngân, Tâm Đức, Thảo Lâm, Trang Vinh, Trung Á.

Danh sách hãng taxi Tuyên Quang

Danh bạ số điện thoại các hãng taxi ở Tuyên Quang

Taxi Thành Tín 0207.3.827.827

Taxi Đức Thu 0207.3.871.871

Taxi Hoàng Ngân 0207.3.89.89.89

Taxi Tâm Đức 0207.3.926.926

Taxi Thảo Lâm 0207.3.898.898

Taxi Trang Vinh 0207.3.811.811

Taxi Trung Á 0207.3.819.819

Danh lam, thắng cảnh Tuyên Quang

– Quần thể hang động xã Yên Phú, huyện Hàm Yên: danh thắng quốc gia – Động Song Long – xã Khuôn Hà, huyện Lâm Bình: danh thắng quốc gia – Hang Phia Vài – xã Khuôn Hà, huyện Lâm Bình: danh thắng quốc gia – Thác Mơ – Na Hang Cách thị xã Tuyên Quang 100 km, thác Mơ nằm giữa khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang. Lối vào thác là con đường rải nhựa ngoằn ngoèo chạy dưới tán rừng nguyên sinh. Từ hồ nước trong xanh vời vợi trên đỉnh núi Pắc Ban, từng ngọn thác mềm mại, trắng xoá đổ xuống chân núi. – Suối nước khoáng Mỹ Lâm Nằm ở địa phận huyện Yên Sơn, Tuyên Quang, suối là một trong những địa chỉ nghỉ dưỡng và chữa bệnh yên tĩnh, thoáng mát. Nguồn nước khoáng ở đây rất tốt cho việc điều trị các bệnh về cơ, xương, khớp… – Động Tiên thuộc huyện Hàm Yên cách thành phố Tuyên Quang khoảng 50 km.

Taxi Hà Nội – Tuyên Quang

Taxi Hà Nội – Tuyên Quang là một trong các dịch vụ taxi đường dài giá rẻ mà DichungTaxi đang triển khai tại các tuyến đường liên tỉnh từ khu vực Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Với tuyến đường Hà Nội – Tuyên Quang, hành khách có thể sử dụng dịch vụ taxi đường dài này với đầy đủ 2 hình thức: Đi chung taxi và Đi riêng taxi. Với hình thức Đi chung taxi, hành khách sẽ tiết kiệm được ít nhất 40% so với giá cước taxi thông thường, giá cước taxi đường dài bây giờ chỉ từ 3.000 đồng/Km.

Để cho bài đăng thật sự hữu ích với người xem các bạn có thể phản hồi bổ xung thông tin thêm các hãng taxi ở mục Comment bên dưới để Admin chỉnh sửa cập nhật thêm.

Trân trọng cảm ơn.

Chia sẻ

Pinterest

reddit

Trang Thông Tin Điện Tử Ban Dân Tộc Tỉnh Tuyên Quang

Tên tự gọi: Lô Lô.

Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.

Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.

Dân số: 4.541 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.

Nữ phục Lô lô được trang trí bằng nhiều đồ án hoa văn khác nhau. Nét đặc trưng ở cả hai nhóm là họ dùng nhiều phương pháp đắp ghép vải và ưa dùng các gam màu sặc sỡ.

Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.

Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Ở: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).

Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Nam giới Lô lô dùng một màu chàm trong trang phục. Ðầu đội khăn quấn nhiều vòng. Nhiều người có thói quen hút thuốc bằng tẩu.

Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét. Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.

Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt…). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn… Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.

Thờ cúng: Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.

Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng bảy…

Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.

Ðại bộ phận người Lô lô ở nhà nền đất, tường trình, cư trú theo khuôn viên từng gia đình. Mỗi khuôn viên có nhà bếp và chuồng gia súc riêng.Ngày nay, mỗi khuôn viên ấy có hàng rào xếp đá vây quanh trong đó có cổng ra vào.

Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.

Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.

Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.

Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

Cận Cảnh Mâm Cỗ Trung Thu ‘Khổng Lồ’ Tại Tuyên Quang

Mâm cỗ “khổng lồ” được làm từ nhiều loại hoa quả được trưng bày tại Lễ hội thành Tuyên 2014 (tỉnh Tuyên Quang) rộng đến 8m, cao hơn 2m.

Du khách đến tham dự Lễ hội thành Tuyên 2014 đêm 7/9 (tức 14/8 âm lịch), do tỉnh Tuyên Quang tổ chức đã được chiêm ngưỡng kiệt tác mâm cỗ khổng lồ do các nghệ nhân trong tỉnh thực hiện.

Mâm cỗ Trung thu khổn lồ được trưng bày tại sân khấu lớn Lễ hội Thành Tuyên 2014 được làm bởi 40 người đến từ khắp các phường trong thành phố Tuyên Quang . Từ năm 2013 đến nay, tỉnh Tuyên Quang vẫn giữ kỷ lục có mâm cỗ Trung thu lớn nhất Việt Nam.

Nhiều loại hoa quả, bánh kẹo, những sản vật của địa phương được các nghệ nhân khéo léo xếp thành hình đóa hoa sen khổng lồ. Ban tổ chức chương trình cho biết, Mâm cỗ Trung thu khổng lồ tại Lễ hội thành Tuyên 2014 rộng đến 8m, cao hơn 2m.

Năm 2004, lần đầu tiên một hoạt động đón trung thu tự phát của người dân thành phố Tuyên Quang được chào đón nồng nhiệt. Mô hình đèn trung thu khổng lồ do nhân dân tổ 12, phường Tân Quang , thành phố Tuyên Quang tự làm để mang lại niềm vui cho con trẻ trong khu dân cư đã đặt nền móng cho hoạt động văn hoá, lễ hội đặc sắc không chỉ dành cho thiếu nhi vào mỗi dịp trung thu mà còn trở thành thương hiệu riêng có của Tuyên Quang, được sách kỷ lục Guiness Việt Nam xác nhận là lễ hội có nhiều mô hình đèn lớn nhất Việt Nam.

Gần 100 mô hình đèn lồng đã tham gia lễ hội.

Từ đó đến nay, Lễ hội thành Tuyên là hoạt động được tổ chức vào dịp trung thu hàng năm với điểm nhấn chính là những mô hình trung thu khổng lồ được người dân các tổ dân phố tự tay làm và rước qua các tuyến phố trong thành phố. Quy mô của lễ hội ngày càng lớn hơn. Sau 10 năm tổ chức bắt đầu từ tự phát đến có tổ chức, năm 2014, lần đầu tiên Lễ hội thành Tuyên được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh. Với sự tham gia đông đảo của người dân, du khách thập phương và bạn bè quốc tế, cùng với sự góp mặt của những mô hình đèn trung thu khổng lồ, đây được đánh giá là lễ hội trung thu lớn nhất cả nước.

Đức Thuận

Theo_Người Đưa Tin

Cận cảnh mâm cỗ Trung thu lớn nhất Việt Nam

Mâm cỗ Trung thu tại Lễ hội thành Tuyên 2014 rộng đến 8m, cao hơn 2m với đủ loại hoa quả, bánh kẹo đẹp mắt.

Mâm cỗ Trung thu trưng bày đêm 7/9 (14/8 âm lịch) tại sân khấu lớn Lễ hội Thành Tuyên 2014 được làm bởi 40 người đến từ khắp các phường trong thành phố Tuyên Quang. Từ năm 2013 đến nay, tỉnh Tuyên Quang vẫn giữ kỷ lục có mâm cỗ Trung thu lớn nhất Việt Nam.

Nhiều loại hoa quả, bánh kẹo, những sản vật của địa phương được các nghệ nhân khéo léo xếp thành hình đóa hoa sen khổng lồ.

Với mong muốn đem lại niềm vui cho trẻ em dịp Trung thu, từ nhiều năm nay, người dân ở thành phố Tuyên Quang đã làm ra những mô hình đèn lồng, mâm cỗ khổng lồ.

Hoa quả để xếp cỗ được lựa chọn kỹ càng, hầu hết đều là các sản vật của địa phương

Các nghệ nhân tỉ mỉ gắn từng loại quả lên mâm cỗ

Dưa hấu được tạo hình khéo léo

Chó bông được làm từ múi bưởi

Đủ loại hoa quả, bánh kẹo được sắp xếp đầy màu sắc

Biểu tượng tỉnh Tuyên Quang tạo hình từ các loại quả

Toàn cảnh mâm cỗ Trung thu khổng lồ hình hoa sen

Người lớn, trẻ nhỏ hào hứng bên mâm cỗ Trung thu khổng lồ.

Theo Khampha

Yêu cầu đóng cửa hàng chục mỏ khoáng sản “lậu” UBND tỉnh Tuyên Quang vừa quyết định đóng cửa hàng chục mỏ khai thác khoáng sản “trái phép” trên địa bàn sau cuộc kiểm tra làm rõ các sai phạm do Cơ quan liên ngành tổ chức vào cuối tháng 4 vừa qua Tỉnh Tuyên Quang đã quyết…

Tín Ngưỡng Thờ Cúng Tổ Tiên Của Người Tày Ở Tuyên Quang, Hay

, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành triết học với đề tài: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo

1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THU TRÀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2016

2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THU TRÀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60220301 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: chúng tôi Hoàng Thị Lan HÀ NỘI, 2016

3. LỜI CẢM ƠN Luận văn “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay” là sự thể hiện kiến thức đã thu nhận của tác giả trong 2 năm học tại Học viện Khoa học Xã hội dưới sự chỉ dẫn tận tình của thầy cô giáo trong Học viện và đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Triết học. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới chúng tôi Hoàng Thị Lan đã hết lòng dìu dắt, giúp đỡ, hướng dẫn tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành công việc nghiên cứu của mình. Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội và các thầy cô trong bộ môn Triết học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học. Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ và động viên tôi hoàn thành luận văn này.

4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của chúng tôi Hoàng Thị Lan. Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác. Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài. Hà Nội, ngày 29 tháng 07 năm 2016 Tác giả luận văn Phạm Thu Trà

5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………….. 1 Chương 1. NGƯỜI TÀY VÀ ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG……………………………………………… 8 1.1. Khái quát chung về tỉnh Tuyên Quang và người Tày ở Tuyên Quang…………………..8 1.2. Đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang ………………..21 Chương 2. VAI TRÒ, XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG HIỆN NAY………………………………………………………………………………………………… 39 2.1. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống tinh thần người Tày ở Tuyên Quang……………………………………………………………………………………………………………………39 2.2. Xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay…………………………………………………………………………………………………………………52 2.3. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay………….59 KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………………….. 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………… 74

6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế vì vậy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc rất cần được bảo lưu, phát triển, chống lại nguy cơ mai một dưới tác động của nền văn hóa ngoại lai đang du nhập. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững (Nghị quyết Trung ương V – khóa VIII, Nghị quyết Trung ương VII – khóa IX, Nghị quyết Trung ương IX – khóa XI). Do vậy, việc nghiên cứu, khai thác kho tàng văn hóa dân tộc, trong đó tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trò quan trọng đối với yêu cầu bảo tồn, phát triển văn hóa Việt Nam. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc bộ, ở đây dân tộc Tày đứng ở vị trí thứ 2 về dân số của tỉnh. Với 185.464 người, chiếm 25,6 % dân số toàn tỉnh và 11,4 % tổng số người Tày tại Việt Nam. Người Tày ở Tuyên Quang có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đa dạng và trong quá trình phát triển chịu ảnh hưởng của nhiều dân tộc khác. Đặc biệt, tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng ở người Tày rất phong phú và đa dạng. Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên là hình thức tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống quan trọng trong đời sống của đồng bào Tày, rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu. Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang phản ánh những khía cạnh của cuộc sống tinh thần, giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về quan niệm vũ trụ, nhân sinh quan, thế giới quan, ý nguyện tâm linh và các quy tắc ứng xử gia đình, cộng đồng tộc người của họ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng chuyển tải giá trị sâu sắc của người Tày ở Tuyên Quang về đạo hiếu, đạo nghĩa của người sống dành cho người chết, người sống với người sống. Nó chi phối đời sống xã hội Tày một cách lâu dài, bền bỉ, thậm chí trở thành những ràng buộc xã hội, tạo nên sức cố kết cộng đồng mạnh mẽ. Trong quá trình lịch sử lâu dài, hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang có sự biến đổi, có những yếu tố tích cực,

8. 3 Văn hoá dân tộc, Hà Nội.,… Các công trình trên chủ yếu nghiên cứu về tôn giáo, văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng dân gian nói chung của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó có một số công trình nghiên cứu chuyên biệt về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như: tác giả Trịnh Thị Thúy đã thực hiện đề tài: “Giữ gìn và phát huy thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ được thờ cúng tổ tiên và những giá trị cần giữ gìn và phát huy. chúng tôi Trần Đăng Sinh với công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng bắc bộ hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2010, tác giả đã đi sâu, khai thác những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng bắc bộ, một địa bàn mang tính điển hình của văn hóa truyền thống Việt Nam. PGS,TS Nguyễn Đức Lữ và ThS Nguyễn Thị Hải Yến với công trình: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam xưa và nay (Hỏi- đáp), Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật 2013,… Nghiên cứu sâu về dân tộc Tày ở Tuyên Quang có công trình “Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang” do tác giả Nịnh Văn Độ chủ biên, Nxb văn hoá dân tộc, năm 2003. Công trình đã tổng hợp những nghiên cứu về lịch sử, tên gọi, cư dân, địa bàn cư trú, cơ cấu xã hội, văn hoá tín ngưỡng của các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu trên địa bàn Tuyên Quang – Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Tày tiêu biểu có: Cuốn sách “Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” của nhóm tác giả Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Khoa học xã hội (1968). Các tác giả đã khái quát về các tộc người Tày, Nùng, Thái đồng thời giới thiệu về văn hóa của nhóm các dân tộc này. Nghiên cứu sâu hơn về văn hóa của dân tộc Tày có cuốn “Văn hóa Tày – Nùng” tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984). Cuốn sách đã khái quát về xã hội, con người và văn hoá của hai dân tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam.

11. 6 Nhiệm vụ: – Trình bày khái quát về người Tày và làm rõ đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang. – Làm rõ vai trò, xu hướng vận động và đề xuất một số giải pháp đối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay. – Phạm vi nghiên cứu: Đề tài: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay” là đề tài khá rộng nhằm nhận diện, phân tích làm rõ thực trạng hoạt động, đặc điểm, vai trò và xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi thời gian có hạn, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trên các khía cạnh: đặc điểm, vai trò và xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang. – Thời gian nghiên cứu: Từ năm 1986 (từ khi Đảng, Nhà nước thực hiện sự nghiệp đổi mới) đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu – Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng tôn giáo. – Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chung là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp như: lịch sử – logic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh…nhằm thực hiện mục đích mà luận văn đặt ra. 6. Ý nghĩa của luận văn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận Đề tài góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Tày ở Tuyên Quang nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói

13. 8 Chương 1 NGƯỜI TÀY VÀ ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG 1.1. Khái quát chung về tỉnh Tuyên Quang và người Tày ở Tuyên Quang 1.1.1. Khái quát chung về tỉnh Tuyên Quang Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, có vị trí địa lý từ 210 30′ đến 220 41′ vĩ độ bắc, từ 1040 50′ đến 1050 35′ độ kinh đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang; phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc; phía Đông và Đông Bắc giáp các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên; phía Tây giáp tỉnh Yên Bái (Xem bản đồ tỉnh Tuyên Quang 1.1. Với vị trí đó, vùng Tuyên Quang là nơi hội tụ nhân dân các dân tộc gồm cư dân các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, miền núi Việt Bắc. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên 5.868 km2 , chiếm 1,78% diện tích cả nước. Các đường giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh là quốc lộ 2 đi qua địa bàn tỉnh dài 90 km từ Phú Thọ lên Hà Giang, quốc lộ 37 từ Thái Nguyên đi qua huyện Sơn Dương, Yên Sơn đi Yên Bái. Nhờ có tuyến giao thông huyết mạch chạy trên địa bàn của tỉnh, Tuyên Quang có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội và giao lưu văn hoá vùng miền với các tỉnh vùng núi bắc bộ, một số tỉnh thuộc trung du và đồng bằng sông Hồng ở phía nam. Với vị trí địa lý như vậy, cư dân Tày ở tỉnh Tuyên Quang có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đón nhận nhiều luồng văn hóa khác nhau trong quá trình sinh sống. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến các loại hình tín ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đồng bào Tày.

14. 9 Bản đồ tỉnh Tuyên Quang Nguồn: Bản đồ tỉnh Tuyên Quang truy cập trên mạng Internet

15. 10 Tỉnh Tuyên Quang có tổng diện tích là 5.868km, bao gồm có một thành phố (Tuyên Quang) và 6 huyện (Chiêm Hoá, Na Hang, Lâm Bình, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương). Khí hậu nơi đây mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa Bắc Á Trung Hoa có 2 mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh, khô hạn và mùa hè nóng ẩm mưa nhiều; mưa bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8. Các hiện tượng như mưa đá, gió lốc thường xảy ra trong mùa mưa bão với lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.500 – 1.800 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 220 – 240 C. Cao nhất trung bình 330 – 350 C, thấp nhất trung bình từ 120 – 130 C; tháng lạnh nhất là tháng 11 và 12 (âm lịch), hay có sương muối. Khí hậu Tuyên Quang khá thuận lợi để phát triển nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn phong phú, đa dạng cho quá trình sinh tồn và thực hiện các nghi lễ thờ cúng, trong đó có nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Tày. Địa hình Tuyên Quang là miền chuyển tiếp từ địa hình núi sang địa hình đồi, trong đó địa hình núi chiếm ưu thế, núi đồi trùng điệp thung lũng sâu. Vùng cao phía bắc có độ cao trung bình 600m so với mặt nước biển, phía nam của tỉnh là vùng đồi núi thấp và các soi bãi rộng màu mỡ cùng các thung lũng lớn. Tuyên Quang có hệ thống sông ngòi dày đặc và phân bố tương đối đồng đều. Toàn tỉnh có khoảng 500 sông suối lớn nhỏ chảy qua các sông chính như: Sông Lô, Sông Gâm, Sông Phó Ðáy. Mạng lưới sông ngòi của Tuyên Quang có vai trò quan trọng đối với sản xuất và đời sống của dân cư, vừa là giao thông đường thuỷ, vừa là nguồn cung cấp nước cho nông nghiệp, cho nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Đặc biệt sông Lô và sông Gâm có tiềm năng về thuỷ điện. Ở các huyện Na Hang, Chiêm Hoá, Sơn Dương đã xuất hiện một số công trình thuỷ điện nhỏ phục vụ sinh hoạt, góp phần nâng cao đời sống văn hoá cho nhân dân các dân tộc trong đó có người Tày. Người Tày thường cư trú dọc các con sông, suối. Họ biết tận dụng nguồn nước trong quá trình sinh hoạt, sản xuất. Tuy nhiên, vào mùa mưa ngập lụt xảy ra cũng đe dọa rất lớn đến sản xuất và đời sống của người dân. Tuyên Quang có thảm thực vật phong phú và đa dạng, nhiều loại động vật mang đặc trưng của vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Thực vật bao gồm đinh, lát, lim,

16. 11 mỡ, bạch đàn, tre, nứa, vầu, cây thuốc…. Động vật có hươu, nai, lợn rừng, nhím, sóc, cầy, chim, gà lôi, ong… Tuy nhiên, đến nay tài nguyên rừng đã bị khai thác nhiều, trữ lượng gỗ thấp. Hiện nay, đất rừng đang được đồng bào gây trồng với chương trình 135. Tài nguyên khoáng sản chủ yếu là quặng, thiếc, mangan, đá vôi, đất sét, than… Kinh tế của tỉnh với sản xuất nông, lâm nghiệp chiếm ưu thế. Nền sản xuất hàng hoá đang trong quá trình phát triển. Mô hình kinh tế trang trại tương đối phát triển. Đến năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 14%/năm. GDP bình quân đầu người đạt 1.300 USD, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Có thể thấy những năm vừa qua Tuyên Quang không ngừng đổi mới và đạt được những kết quả khả quan. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tạo đà cho việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Văn hoá, xã hội luôn được tỉnh quan tâm, chú trọng. Đến nay, toàn tỉnh có trên 70% số thôn, bản, tổ nhân dân đạt danh hiệu văn hoá; trên 80% số hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá; 97% dân số được phủ sóng phát thanh; 87% dân số được phủ sóng truyền hình. Tuyên Quang đã giải quyết việc làm cho 80.000 lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới bình quân 3 – 4%/năm. Dân số toàn tỉnh tính đến năm 2013 là 746.700 người, với mật độ 127 người/km2 . Dân số trong độ tuổi lao động là 377.314 người, chiếm 50,53% dân số toàn tỉnh. Trên địa bàn tỉnh có 38 dân tộc cùng sinh sống đan xen, mỗi dân tộc có truyền thống văn hoá riêng, vừa đậm đà bản sắc, đồng thời vừa có sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó có 12 dân tộc có số dân trên 100 người. Các dân tộc có số dân đông hơn cả là: Kinh (46,22%), Tày (25,59%), Dao (12,5%), Sán Chay (8,46%), Mông (2,34%), Nùng (1,96%), Hoa (0,83%)… Có số dân ít hơn là các dân tộc Pà Thẻn, Mường, Thái, La Chí, Gia Rai, Ê Đê, Giáy, Cơ Lao…[56, tr. 154]. Có thể nói, các yếu tố môi trường, tự nhiên, kinh tế, xã hội đều trực tiếp hay gián tiếp chi phối đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

17. 12 nói chung và đời sống của người Tày nói riêng. Các đặc điểm địa lý, địa hình, đất đai, khí hậu, thủy văn… đã tạo cho khu vực cư trú của đồng bào Tày một tiềm năng phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, cải thiện cuộc sống. Người Tày đã biết tận dụng mọi khả năng do thiên nhiên ban tặng để tổ chức cuộc sống này. Tuy nhiên, trình độ và phương pháp sử dụng còn thô sơ, lạc hậu nên đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Tày còn thấp kém. 1.1.2. Người Tày ở Tuyên Quang Dân tộc Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay và phân bố rải rác ở khắp các tỉnh thượng và trung du Bắc bộ. Về danh xưng Tày là tên đồng bào tự gọi (Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này có từ nửa cuối của thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên) và ngày nay trở thành tên gọi chính thức của dân tộc thay cho tên gọi là “Thổ” trước kia. Tộc người Tày được hình thành trong mối quan hệ đa dạng, đan xen và giao lưu với các tộc người khác. Người Tày ở Việt Nam hiện nay là sự tập hợp của nhiều thành phần như người Tày bản địa, người Tày gốc Kinh, người Nùng hóa Tày, bộ phận người Tày gốc Tày, Thái, Nùng từ Trung Quốc di cư sang. Nghiên cứu về người Tày bản địa, qua các tài liệu lịch sử, khảo cổ học, truyền thuyết dân gian…các nhà nghiên cứu trong nước đã cho rằng trong lịch sử xa xưa, một bộ phận người nói ngôn ngữ Tày – Thái cổ đã có mặt ở khu vực Việt Bắc của Việt Nam. Một số cứ liệu và truyền thuyết còn cho rằng. Vào cuối thế kỷ III TCN, thủ lĩnh người Tày cổ là Thục Phán đã lãnh đạo người Âu Việt và Lạc Việt chống lại cuộc xâm lược của quân Tần thắng lợi, lập nên nước Âu Lạc và đóng đô ở Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, lấy hiệu là An Dương Vương. Đây có thể coi là một trong những minh chứng về sự có mặt của người Tày Cổ. Nguyễn Thị Yên trong cuốn “Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng” cho rằng: “Bộ phận người nói ngôn ngữ Tày – Thái cổ ở vùng thượng du, trải qua thời gian cùng với sự diễn biến của các quá trình lịch sử tộc người, cùng với sự phân định của biên giới Việt – Trung đã dần tách khỏi tộc người – ngôn ngữ Choang vùng Lưỡng Quảng mà hình thành nên tộc người Tày – Thái ở Việt Nam” [73, tr. 31].

18. 13 Theo ông Vũ Ngọc Khánh trong “Văn hóa tín ngưỡng Tày, Nùng” đã nhận định: “Người Tày và người Nùng, cùng thuộc khối cư dân Bách Việt từ xưa, là khối cư dân cư trú lâu đời trên giải đất nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Khi có sự thiết lập đường biên giới hai quốc gia Trung Việt thì nhóm dân cư Tày, Nùng này mới phát triển những nét riêng biệt. Nhóm cư dân bên này chịu ảnh hưởng văn hoá của người Việt thành nhóm Tày, Nùng. Nhóm bên kia chịu ảnh hưởng của văn hoá người Hán được gọi là nhóm Choang Đồng” [36, tr. 13]. Những người “Tày hóa”: Bộ phận người Tày gốc Kinh, yếu tố này làm nên diện mạo văn hóa vô cùng đặc sắc trong văn hóa người Tày. Trong quá trình lịch sử, người Kinh lên cư trú ở vùng người Tày rồi bị đồng hóa thành người Tày đó cũng là điều dễ hiểu. Một bộ phận người Kinh bị đồng hóa là do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Được bổ nhiệm làm quan, là binh lính được điều lên đồn trú, lánh nạn do bị thất thế, do tha phương tìm nơi làm ăn…Nổi bật nhất là sự kiện vào thế kỷ XVI, nhà Mạc thất thế ở miền xuôi sau đó chạy đi tản loạn lên Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hiện nay vẫn còn dấu tích thành nhà Mạc ở Tuyên Quang. Sau khi bị triều đình nhà Lê đánh bại, con cháu nhà Mạc thay tên đổi họ sống hòa nhập cùng với cộng đồng người bản sứ. Ngoài ra còn có những người đến đây ở, lấy vợ, lấy chồng người Tày, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Tày và trở thành người Tày. Bộ phận người Nùng hóa Tày: Với những đặc điểm tương đồng về ngôn ngữ, phương thức sinh hoạt sản xuất và nhiều phương diện giữa hai tộc người này mà dưới triều đại nhà Nguyễn đã có chủ trương đổi tộc người Nùng sang tộc Thổ – chính là người Tày bản địa. Khi viết về người Nùng ở Tuyên Quang, trong sách Kiến văn tiểu lục ở thế kỷ XVIII, tác giả Lê Qúy Đôn có ghi chép về nguồn gốc của người Nùng là từ 12 thổ châu của Trung Quốc di cư sang. Tuy nhiên theo như số liệu điều tra thì đến những năm 60 của thế kỷ XX ở Tuyên Quang chỉ có 1200 người Nùng và có tới 32000 người Tày. Điều này chứng tỏ rằng, người Nùng bị Tày hóa là khá phổ biến. Người Tày ở Tuyên Quang hiện nay gồm người gốc Tày ở đây từ lâu đời, nhưng cũng có bộ phận người được “Tày hoá” từ các dân tộc khác đến sống ở vùng

19. 14 người Tày. Ngoài ra còn có người Tày ở các tỉnh lân cận di cư đến Tuyên Quang. Tuyên Quang là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống đan xen. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 dân số Tày ở Tuyên Quang là 185.464 người, đông thứ hai sau dân tộc Kinh, chiếm 25,6% dân số toàn tỉnh [57, tr. 152]. Ở khu vực nông thôn, người Tày thường sống tập trung thành từng làng (bản), tạo thành các quần thể riêng, đây là đặc điểm nổi bật của các làng người Tày truyền thống. Còn ở các vùng thành phố, thị trấn họ sống xen kẽ với các dân tộc khác, chủ yếu là dân tộc Kinh. Dân tộc Tày định cư ở Tuyên Quang từ lâu đời, trong quá trình tồn tại và phát triển, người Tày và các dân tộc khác như Kinh, Dao, Sán Dìu,… có sự giao thoa lẫn nhau. Trong điều kiện giao lưu kinh tế, văn hóa vùng miền thuận tiện như hiện nay, các mối quan hệ tộc người càng thêm gắn bó hơn, đặc biệt mối quan hệ giữa các dân tộc Nùng, Kinh, Tày… Trên thực tế, một số hiện tượng văn hóa của dân tộc giao thoa mạnh mẽ, khiến cho các nhà nghiên cứu về văn hóa khó có thể phân biệt được một cách rõ ràng. Mặc dù vậy, một số yếu tố văn hóa của tộc người Tày vẫn tồn tại và có bản sắc khá riêng biệt. Có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của người Tày ở Tuyên Quang như sau: * Đặc điểm kinh tế: Đời sống kinh tế của người Tày dựa vào canh tác nông nghiệp là chủ yếu, họ trồng lúa nước trên những thửa ruộng bậc thang có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ, nằm ven các con sông, con suối tạo thành những cánh đồng rộng lớn. Từ xa xưa, đời sống của những cư dân Tày cổ đã gắn liền với ngành trồng lúa nước nên họ có rất nhiều kinh nghiệm trong canh tác, từ việc chọn đất, kỹ thuật làm đất, chăm sóc và thu hoạch. Cùng với nông nghiệp trồng lúa, người Tày còn khai thác những khu vực sườn đồi trồng các loại cây lương thực ngắn ngày như: cây ngô, đậu tương, lạc…và một số loại cây ăn quả đặc sản, cây lấy gỗ, dược liệu…và phát triển ngành chăn nuôi gia xúc, gia cầm. Ngành chăn nuôi trong các gia đình người Tày

20. 15 cũng phát triển khá mạnh, chủ yếu là nuôi trâu, ngựa, lợn, gà vịt, nuôi cá là chính. Trước đây chăn nuôi của người Tày chủ yếu để cung cấp sức kéo nông nghiệp và thực phẩm cho các dịp ma chay, cưới xin, lễ tết… Ngày nay, các gia đình người Tày còn nuôi lợn, gà, vịt, cá để cải thiện các bữa ăn hàng ngày và để bán tăng thêm thu nhập cho gia đình. Trước đây, vật nuôi chủ yếu nhốt dưới gầm sàn, ngày nay, chuồng trại chăn nuôi đã tách biệt với nhà ở. Ngoài trồng trọt và chăn nuôi, người Tày ở Tuyên Quang còn làm các nghề thủ công như mộc, đan lát nhưng chủ yếu mang tính tự cung tự cấp trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có. Hiện nay, nghề đan lát, đặc biệt là nghề đan cót, làm mành chiếu đang phát triển rất mạnh trong cộng đồng người Tày ở các huyện Chiêm Hoá, Na Hang và trở thành những sản phẩm hàng hoá mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với điều kiện kinh tế như trên đã góp phần nâng cao đời sống vật chất của người Tày so với trước đây, điều đó cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đồng bào Tày. * Đặc điểm văn hóa, xã hội. Làng bản, nhà cửa: Người Tày thường sinh sống ở dưới chân núi, hay những vùng thung lũng thấp, bản làng của người Tày được tổ chức xã hội theo cơ chế tự quản. Người đứng đầu được gọi là trưởng bản là người có uy tín, biết và am hiểu vùng đất sinh sống, hiểu được phong tục tập quán, mối quan hệ giữa các dòng họ và điều hành mọi hoạt động của làng bản. Làng, bản của người Tày sống tập trung theo vùng khoảng từ 15 – 30 ngôi nhà, cư trú theo dòng họ, hoặc là mối quan hệ xã hội thông thường. Người Tày sinh sống luôn có tư tưởng ổn định về nơi ở. Nhà ở của người Tày là nhà sàn. Nhà sàn có hai loại, loại to gọi là “lườn tảng”, loại nhỏ “lườn giảo”, đây là loại hình nhà ở chủ yếu của các dân tộc Tày, Nùng, Thái…Nhà sàn của người Tày hoàn toàn được xây dựng để phù hợp với địa hình và khí hậu, đồng thời tránh được thú dữ tấn công. Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống và phổ biến trong cộng đồng người Tày ở Tuyên Quang. Nhà sàn truyền thống được thiết kế theo kiểu nhà bốn mái, gồm hai

21. 16 mái chính phía trước, sau và hai mái phụ làm thấp hơn ở hai đầu hồi. Nhà được thiết kế theo kiểu nhà ngang, có năm gian hoặc ba gian. Các ngôi nhà sàn được lợp bằng lá cọ hay ngói âm dương. Xung quanh ngôi nhà được bưng kín bằng gỗ hoặc bằng phên tre đan, sàn nhà được ken bằng giác tre mai già, gia đình khá giả lát bằng ván xẻ tạo sự thông thoáng cho ngôi nhà. Trong ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày được chia ra làm nhiều gian khác nhau được bưng bằng ván gỗ hoặc bằng phen tre tạo thành những căn phòng riêng. Vị trí sinh hoạt của các thành viên trong ngôi nhà được quy định rõ ràng. Gian giữa là nơi trang trọng nhất của ngôi nhà và cũng là nơi đặt bằn thờ tổ tiên đối diện với cửa chính (bàn thờ lại đặt quay mặt ngược lại so với hướng nhà), đối diện bàn thờ tổ tiên là nơi làm giường nằm cho khách, ở giữa đặt bếp lửa là nơi chủ nhà tiếp khách, hoặc bàn bạc những việc đại sự của gia đình. Phía bên tay trái của bàn thờ là nơi giường nằm của chủ nhà, tiếp đó là đến giường nằm của con cái trong gia đình. Vị trí bếp được làm tách riêng thành một gian ở trái nhà hoặc đằng trước, đồ dùng, công cụ lao động của gia đình được đặt ở gian bếp. Ngày nay, nhà sàn của người Tày đang bị thu hẹp do rừng bị tàn phá dẫn tới nguồn tài nguyên gỗ ngày càng khan hiếm, nên nhiều gia đình đã chuyển sang ở nhà đất (khung gỗ) hoặc nhà xây bán kiên cố. Tuy nhiên, đặc điểm truyền thống nổi bật trong ngôi nhà sàn của người Tày là cách bố trí nơi tiếp khách, bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà vẫn lưu lại được. Trang phục: Trang phục truyền thống của nam nữ dân tộc Tày ở Tuyên Quang giống như người Tày ở các tỉnh vùng núi phía bắc Việt Nam, trang phục thường được may bằng vải sợi bông hoặc tơ tằm do đồng bào tự dệt, vải may được nhuộm sang màu chàm thường không có hoa văn trang trí Bộ y phục của nam được thiết kế đơn giản so với y phục của nữ giới. Y phục nam giới Tày gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, đầu đội mũ, chân đi giày vải. Áo cánh được may theo kiểu xẻ giữa ngực, có 7 cúc và khuy, có túi ở hai vạt trước. Khi đi dự hội, nam giới Tày mặc áo dài 5 thân buông vạt trùm qua cạp quần xuống đến đầu gối, có 5 cúc cài sang nách phía phải. Quần ống rộng cắt theo kiểu chân

22. 17 què, đũng rộng, ống quần vừa phải, kéo đến mắt cá chân. Phần cạp được may rộng hơn, khi mặc họ thường vấn cạp về đằng trước và dùng dây vải buộc. Khi đi làm hoặc đi hội, nam giới Tày thường đội khăn vấn theo hình chữ nhân, về sau này họ chuyển sang đội mũ nồi, còn khi đi làm đồng họ đội nón cọ. Y phục của nữ giới Tày gồm có áo cánh, áo dài 5 thân, quần, váy, thắt lưng, khăn đội đầu, đi hài vải. Áo cánh bốn thân được may theo kiểu áo xẻ ngực, cổ tròn nhỏ, phần tà hơi loe, có hai túi nhỏ đằng trước, áo được may bằng vải bông hoặc vải lụa. Đây là kiểu áo phổ biến mà phụ nữ Tày hay mặc. Ngoài ra, phục nữ Tày còn mặc kiểu áo 5 thân giống nam giới nhưng chùng đến mắt cá chân, được thắt eo và tay áo nhỏ hơn, cổ tròn ôm khít cổ, cài cúc nách. Phụ nữ Tày mặc kiểu quần lá toạ, gần giống với kiểu quần của nam giới nhưng được làm nhỏ, gọn hơn. Ở một số vùng như Chiêm Hoá, Na Hang, những người phụ nữ Tày trung tuổi vẫn còn mặc váy. Váy của người Tày là loại váy kín gồm có ba phần là phần cạp, phần thân và phần gấu. Đi kèm với trang phục, người phụ nữ Tày thường dùng thắt dây lưng làm bằng sợi bông quấn quanh eo tạo lên đường cong của cơ thể. Khi ra đường người phụ nữ Tày thường đội khăn vuông, được gấp theo đường chéo, được vấn theo theo hình mỏ quả. Còn những cô gái thì vấn tóc thành vòng tròn quanh đầu. Ngoài quần, áo, khăn, thắt lưng, giày, phụ nữ Tày còn đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng bạc. Ngày nay, nghề trồng bông, dệt vải nhuộm chàm ở Tuyên Quang bị mai một, hầu như không còn nữa, quần áo truyền thống của nam, nữ dân tộc Tày hiện chỉ còn thấy ở những người lớn tuổi hoặc các cụ già mặc trong các dịp lễ tết, cầu cúng… Nam nữ, thanh niên đều mặc âu phục trong sinh hoạt hàng ngày là phổ biến. Ẩm thực: Bữa ăn hàng ngày của người Tày rất bình dị nhưng cũng có những nét đặc sắc rất riêng. Với bản sắc là cư dân nông nghiệp, người Tày có tập quán ăn cơm. Lương thực gồm gạo nếp, gạo tẻ, ngô, khoai, sắn. Thực phẩm dùng trong bữa ăn gồm các loại rau tự trồng, rau thu hái ở tự nhiên như rau dớn, mộc nhĩ, nấm hương, các loại thịt gia súc, gia cầm do chăn nuôi; thịt thú rừng, chim săn bẫy được; các loại cá, tôm nuôi hoặc đánh bắt. Nguồn cung cấp thịt, cá không phải lúc nào cũng dồi dào, vậy nên họ đã nghĩ ra nhiều cách chế biến ẩm thực khác nhau để đảm

23. 18 bảo cho những lúc thiếu thốn. Thịt lợn được chế biến thành món thịt lạp, thịt lạp treo gác bếp để được rất lâu trong năm. Ngoài ra trên vùng đồng bào còn có nhiều con suối, con ngạch nhỏ rất nhiều cá, vậy nên họ còn chế biến món hém cá, đồng bào gọi là “Pia bẳm” nghĩa là mắm cá ruộng, đây là món ăn ngon mang bản sắc của người Tày. Phụ nữ Tày vào dịp lễ tết, nhà nhà đều trổ tài làm bánh, các loại bánh được chế biến từ gạo, ngô, khoai…như: bánh chưng, bánh dày, bánh gai, bánh gio, bánh trôi, bánh dợm, hay các loại xôi: xôi trứng kiến (được làm từ trứng kiến), xôi ngũ sắc (làm từ 5 loại lá và củ). Mỗi khi có ngày lễ, ngày tết phụ nữ Tày làm rất nhiều các loại bánh, loại xôi, được gói vào lá chuối, lá rong, được bày biện lên khay đĩa để cúng trình tổ tiên sau một năm gặt hái. Đồng bào Tày thường uống nước trà, các loại lá vối, chè dây… là những loại lá dễ kiếm, giải khát tốt. Trong sinh hoạt thường ngày, khi có khách và vào các dịp lễ tết thì họ uống rượu. Đồng bào Tày có một loại rượu đặc sản – rượu ngô, vùng Na Hang rượu ngô ngon có tiếng. Nhìn chung người Tày cũng giống như các dân tộc ở miền núi họ biết dùng những sản vật tự nhiên ban tặng để chế ra các loại đồ uống hợp với điều kiện sinh hoạt của gia đình, của cộng đồng. Văn hoá tinh thần: Tộc người Tày ở Tuyên Quang cũng giống như tộc người Tày cư trú ở vùng núi phía bắc Việt Nam, quan niệm người sống thì có hồn (khoăn), người chết thì thành ma (phi) từ đó đã hình thành nhiều hình thức tín ngưỡng khác nhau của dân tộc này như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Mẹ Hoa, thờ thổ thần, thờ tổ sư, thờ các vị thần linh gắn với các hiện tượng tự nhiên, gắn với bản mệnh của làng. Các ngày tết và lễ hội chính trong năm của của người Tày đó là: Tết Nguyên Đán, lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) vào dịp mùa xuân đầu năm mới, Tết Thanh Minh mùng 3 tháng 3, Tết Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5, tết rằm tháng bảy…. Trong các dịp tết và lễ hội này ngoài các nghi lễ thì người dân thường tổ chức những sinh hoạt văn hóa cộng đồng như: Hát then, hát lượn.

24. 19 Đồng bào Tày còn có một kho tàng tri thức văn hóa dân gian tương đối phong phú và độc đáo, đó là câu truyện truyền miệng, truyện viết bằng tay, thơ, ca, hò vè… Nổi bật là các làn điệu then, điệu hát lượn, một lối hát giao duyên của nam nữ thanh niên. Nghệ thuật âm nhạc của đồng bào Tày khá phát triển, nhạc cụ tuy không phong phú nhưng cũng rất độc đáo bao gồm trống, thanh la, não bạt, chũm chọe, chuông, nhạc xóc, sáo… Có thể nói, kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian của đồng bào Tày vô cùng phong phú, ngày nay được đồng bào coi như một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống sinh hoạt và trong đời sống xã hội của cộng đồng. Về xã hội: Quan hệ gia đình của đồng bào Tày thuộc loại gia đình nhỏ phụ hệ, trong gia đình có từ hai thế hệ trở lên cùng sinh sống, tuy nhiên cũng có nhiều gia đình từ ba đến bốn thế hệ cùng chung sống gồm ông bà, cha mẹ, con cháu. Trong gia đình đồng bào Tày, người chồng, người bố bao giờ cũng là trụ cột, gia đình mang tính chất phụ quyền, người chủ trong gia đình có vị trí quan trọng quyết định những việc hệ trọng như việc thờ cúng, tổ chức sản xuất, làm nhà, tổ chức việc cưới, việc tang… Chỉ có gia đình nào khi đàn ông không còn nữa, người phụ nữ sẽ thay người đàn ông quan xuyến việc gia đình. Tuy vậy, khi gia đình có công việc lớn họ đều tham khảo ý kiến của dòng họ và coi trọng ý kiến tham gia của họ. Hôn nhân của người Tày theo chế độ một vợ, một chồng, khi xưa còn có tục tảo hôn, gả bán con cho nhau mang tính chất mua bán đậm nét. Ngày nay, nam nữ có quyền tự do tìm hiểu và đi đến hôn nhân. Người Tày ở Tuyên Quang có nhiều dòng họ, nhưng đông nhất là các dòng họ: Ma, Lương, Chẩu và Hoàng. Tôn ti trong gia đình người Tày gần giống như người Kinh về cách gọi, cách xưng hô và ngôi thứ. Quan hệ cộng đồng: Trong các bản làng của người Tày ở Tuyên Quang thường là quan hệ họ hàng thân thuộc, gắn bó mật thiết, thân thiện, tối lửa tắt đèn có nhau. Khi gia đình nào có việc (đám cưới, nhà mới, đám tang…) mọi người trong bản đều quan tâm, chia sẻ, đóng góp vật chất, tinh thần. Vì vậy, dù giàu hay nghèo,

25. 20 mỗi gia đình vẫn có thể lo cho con cái một đám cưới chu toàn, lo báo hiếu cha mẹ chu đáo, trọn vẹn theo đúng lễ tục truyền thống. Tóm lại, người Tày ở Tuyên Quang sinh sống ở các vùng đất có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi. Tuy nhiên, thiên tai luôn đe dọa cuộc sống, thêm vào đó, nền kinh tế thuần nông, thu nhập thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, khiến cư dân Tày chưa thể vượt khỏi niềm tin có lực lượng siêu nhiên chi phối. Làng bản của người Tày là sự gắn kết các gia đình hạt nhân phụ hệ, trong đó tồn tại rất nhiều mối quan hệ ràng buộc của các thành viên trong gia đình. Các mối quan hệ này được điều chỉnh bằng thiết chế luật pháp của nhà nước và luật tục của dân cư, nguyên tắc sống trong gia đình, tạo nên sức cố kết cộng đồng chặt chẽ trong cuộc sống cũng như trong thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, điều kiện tự nhiên, môi trường, dân cư và quá trình di cư từ các tỉnh lân cận đến Tuyên Quang, cộng cư với các dân tộc láng giềng (Kinh, Dao, Sán dìu, Sán Chay, Hoa, H Mông, Nùng,…) đã tạo cho người Tày có những đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội vừa chung của Tuyên Quang vừa có những nét văn hóa riêng. Nét riêng dễ nhận thấy trong văn hóa của người Tày phải kể đến ngôi nhà sàn, chiếc áo chàm và những làn điệu hát then, hát lượn, phong shư… phong phú. Đặc biệt trong nét riêng ấy là tập tục giữ gìn tôn ti trật tự gia đình trong cuộc sống hàng ngày và các nghi lễ thờ cúng. Tất cả những điều kiện hiện thực ấy đã nảy sinh, nuôi dưỡng niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo, chi phối cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, cộng đồng Tày ở Tuyên Quang với môi trường, xã hội và cả thế giới thần linh – nơi cư ngụ của những linh hồn sau khi chết. Vì vậy, việc tổ chức, thực hiện các nghi lễ và cách ứng xử trong thờ cúng không chỉ gắn liền với xã hội hiện thực ấy mà còn gắn liền với niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng về thân phận con người ở thế giới vô hình, thế giới của những linh hồn và thế giới thực tại. Chính vì vậy, thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang cũng được coi là một biểu hiện của sự phản ánh hư ảo những quan niệm về vũ trụ, thần linh, ma quỷ, lực lượng siêu nhiên… chi phối cuộc sống thường ngày của họ, khiến người ta hành lễ thờ cúng tang ma,… để vượt qua

26. 21 sự sợ hãi, rủi ro trong cuộc sống, cầu xin sự ban phúc, sức khỏe, cuộc sống bình an, sung túc cho gia đình, người thân và cộng đồng. 1.2. Đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang 1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên * Khái niệm tín ngưỡng Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội, thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Tín ngưỡng ra đời, tồn tại và phát triển gắn với lịch sử phát triển của nhân loại. Có nhiều cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu nên có nhiều cách hiểu khác nhau về tín ngưỡng. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với quan niệm của Platon, Heghen đã xuất phát từ thực thể tinh thần, “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để lý giải các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng. Heghen cho rằng, khởi nguyên của thế giới là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của “ý niệm tuyệt đối”. “Ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn. Do đó, quan điểm của các nhà triết học duy tâm là sự biện hộ cho tín ngưỡng, tôn giáo, họ xem tín ngưỡng tôn giáo là sức mạnh thần bí thuộc tinh thần tồn tại vĩnh hằng, là nhân tố chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. Các nhà triết học duy tâm chủ quan lại cho rằng, tín ngưỡng là thuộc tính vốn có trong ý thức của con người, tồn tại không phụ thuộc vào hiện thực khách quan. Theo C.Mác thì tín ngưỡng, về bản chất, là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa cụ thể nào đó. Tín ngưỡng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chính con người đã thần thánh hóa, khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên, tạo thành cái bản chất khác mình và trở thành chỗ dựa cho chính mình. Các nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng như sau: Từ điển tôn giáo xác định: “Tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí, lực lượng siêu nhiên đó có thể

27. 22 mang hình thức biểu tượng là “Trời”, “Phật”, “Chúa”, “Thánh”, “Thần” hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vô hình nào đó tác động đến đời sống tâm linh của người ta, được con người tin là có thật và tôn thờ”. [30, tr 634-635]. GS. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, Ở nước ta hiện nay, tín ngưỡng có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, khi nói về tự do tín ngưỡng thì có thể hiểu đó là tự do về ý thức, tự do về tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ hai, tín ngưỡng còn được hiểu với nghĩa rộng bao trùm lên tôn giáo, là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành tôn giáo, mọi tôn giáo đều có yếu tố cấu thành là tín ngưỡng. Trong Việt Nam văn hóa sử cương, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng: “Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa ” [1, tr 283]. Trần Đăng Sinh lại đi sâu phân tích khái niệm tín ngưỡng trên cơ sở năm đặc trưng: 1, Xem xét tín ngưỡng gắn với đời sống tinh thần nói chung. 2, Xem xét tín ngưỡng như là kết quả của sự hình thành và phát triển các quan hệ xã hội, có tác động trở lại các quan hệ đó. 3, Xem xét tín ngưỡng như là phương thức biểu hiện niềm tin của con người vào cái thiêng liêng, biểu hiện sự bất lực của họ trước sức mạnh thống trị của lực lượng tự nhiên và xã hội. 4, Xem xét tín ngưỡng như một hiện tượng lịch sử – văn hóa có quy luật hình thành và vận động, biến đổi riêng. 5, Xem xét tín ngưỡng như là một bộ phận của ý thức xã hội trong quan hệ với tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, triết học, lịch sử, nghệ thuật, khoa học. Sự tổng hợp, đan xen của năm đặc trưng trên tạo thành lát cắt bởi điểm giao nhau nói lên đặc trưng chung nhất của tín ngưỡng. [49, tr 32-33]. Tín ngưỡng theo cách hiểu “thông thường” là tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, tín ngưỡng và tôn giáo về nội dung và hình thức phản ánh, tuy có sự tương đồng, song cũng có sự khác biệt ở nhiều phương diện. Tín ngưỡng được hình thành từ chính cuộc sống của con người, tín ngưỡng phản ánh tự nhiên, chưa có cơ sở lý luận hoàn bị. Do đó, tín ngưỡng mang tính chất

28. 23 dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Tín ngưỡng hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở niềm tin vào các phép lạ, thần linh, tổ tiên. Vì vậy, tín ngưỡng gắn liền với các phong tục, tập quán của con người. Ở tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý, nơi thờ cúng và nghi lễ còn mang tính đơn giản. Còn tôn giáo được hình thành và tồn tại trên cơ sở lý luận chặt chẽ, có tính hệ thống và khái quát, có hệ ý thức và tâm lý tôn giáo. Ở trong tôn giáo, các nghi lễ được đặc biệt coi trọng và mang tính hệ thống, được quy định chặt chẽ bởi giáo lý, giáo luật, mang tính chất bắt buộc với các tín đồ. Tác giả Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo: “Tôn giáo có hệ thống giáo lý và kinh điển… được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh đường, học viện… có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa, thánh đường… nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần linh và con người. Còn tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng nghi lễ còn phân tán, chưa hình thành quy ước chặt chẽ” [54, tr 50]. Tuy nhiên, tín ngưỡng và tôn giáo cũng có sự tương đồng đó là: Tín ngưỡng và tôn giáo đều là hình thái ý thức xã hội, đều là sự phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, thể hiện sự bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý tương đương trong quá trình hình thành và tồn tại; đều có chức năng đền bù hư ảo, xoa dịu nỗi đau hiện thực và hướng con người tới sự giải thoát về tinh thần. Tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào các thế lực siêu nhiên… Trong công trình này, tác giả sử dụng khái niệm tín ngưỡng được hiểu là một bộ phận, một hình thái của ý thức xã hội, là sản phẩm của các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử gắn liền với niềm tin, sự ngưỡng mộ, sùng bái những sự vật, hiện tượng thiêng, những thần thánh, sùng bái, thờ phụng linh hồn người chết nhằm cầu mong sự phù hộ độ trì, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống của con người, phản ánh rõ nét nhất đặc trưng văn hóa dân tộc.

29. 24 * Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng mang tính lịch sử – xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cho đến nay, thờ cúng tổ tiên vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều dân tộc. Tuy nhiên, đánh giá vai trò và ý nghĩa của loại hình thờ cúng tổ tiên trong từng giai đoạn lịch sử và ở mỗi quốc gia lại không giống nhau. Ngay cả khái niệm về thờ cúng tổ tiên cũng đang còn nhiều ý kiến khác nhau: Có người cho rằng đó là một tập tục, có người lại cho đó là một tín ngưỡng, tôn giáo bản địa… Theo Trần Đăng Sinh “Tổ tiên là khái niệm để chỉ những người có cùng huyết thống, đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ… là những người có công sinh thành, nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của các thế hệ những người đang sống” [49, tr 109]. Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Tổ tiên không còn bó hẹp trong phạm vi huyết thống, gia đình, họ tộc mà đã mở rộng ra trong phạm vi cộng đồng, xã hội, bao gồm từ tổ nhà, tổ họ cho đến tổ làng, tổ nghề, tổ nước – tức là những người có công đầu tiên hoặc trực tiếp tới việc sinh thành, mở làng, mở nghề, dựng nước. GS Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: “Đạo thờ cúng tổ tiên được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là những người có công sinh dưỡng đã khuất, nghĩa là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả những người có công với cộng đồng, làng xã, đất nước” [60, tr 315]. Theo Phan Kế Bính “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của con người” [8, tr 20- 21]. Điều này có nghĩa là thờ cúng tổ tiên được xem như một tập tục truyền thống mang giá trị đạo đức, thể hiện lòng thành kính nghĩa cử con cháu Thờ cúng tổ tiên được nhân dân ở miền Nam nước ta gọi là đạo ông bà. Hay một số nhà nghiên cứu như Đặng Nghiêm vạn cho rằng, có thể gọi là đạo thờ cúng tổ tiên cũng được, nhưng đạo ở đây không có nghĩa như đạo Kitô, đạo Phật, đạo Hồi… mà phải hiểu như đạo lý làm người, đạo làm con, đạo hiếu nghĩa… và những đạo ấy không thể là một tôn giáo vì đã là một tôn giáo thì phải có giáo lý, có hàng ngũ giáo sỹ và giáo hội….

30. 25 Trong Từ điển Tiếng Việt “Thờ được hiểu theo hai nghĩa: 1- Tỏ lòng tôn kính thần thánh, vật thiêng hay linh hồn người chết bằng hình thức lễ nghi, cúng bái theo phong tục hay theo tín ngưỡng; 2- Tôn kính và coi là thiêng liêng. Còn cúng thì được hiểu: Dâng lễ vật lên thần thánh hay linh hồn người chết theo tín ngưỡng” [58, tr 921]. Do đó, thờ cúng tổ tiên là thể thống nhất của các yếu tố: Ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng. Yếu tố ý thức về tổ tiên chính là sự “thờ” của con cháu đối với tổ tiên. Thờ tổ tiên là tâm linh, là tình cảm tri ân của con cháu hướng về cội nguồn. Con cháu thể hiện sự thành kính, lòng biết ơn tổ tông, ông bà, cha mẹ đã sinh thành, gây dựng cuộc sống cho mình. Đồng thời đó cũng là mong mỏi, niềm tin thiêng liêng vào sự che chở, giúp đỡ của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức tổ tiên là niềm tin về linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết, song linh hồn vẫn sống thường lui tới trong gia đình, ngự trị trên bàn thờ. Ý thức về tổ tiên được hình thành và củng cố qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên và biểu tượng về tổ tiên. Biểu tượng về tổ tiên là những hình ảnh đẹp, là những người tài giỏi, có công có đức được con cháu gán cho tổ tiên và luôn tôn vinh, khắc họa trong tâm tưởng. Biểu tượng về tổ tiên có thể được thể hiện bằng bài vị, tượng, ảnh và được trang trí, bày đặt một cách tôn kính, trang trọng tại nơi thờ cúng. Nghi lễ thờ cúng là hành động dưới hình thức hành lễ, được quy định do quan niệm, phong tục tập quán của mỗi gia đình, dòng họ, mỗi cộng đồng, dân tộc. Nghi lễ cúng là phương tiện để con người có thể giao tiếp với tổ tiên, nó được thể hiện bởi người trưởng gia đình, dòng họ với các động tác như dâng lễ vật, khấn, lễ.. Như vậy, thờ và cúng là hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, yếu tố ý thức, tư tưởng, tình cảm tôn thờ tổ tiên là nội dung cốt lõi, còn cúng là hình thức biểu đạt của nội dung, là phương tiện chuyển tải ý thức, tình cảm của con cháu đối với tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là một tục lệ, tín ngưỡng, tôn giáo hay truyền thống đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Song, theo tác giả “thờ cúng tổ tiên” là một loại hình tín ngưỡng dân gian. Từ đó, có thể khẳng định rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở

31. 26 Việt Nam là khái niệm được dùng để chỉ hoạt động tôn thờ, cúng tế của những người đang sống với những người đã khuất theo những nghi lễ cụ thể tùy thuộc vào quy định của từng cộng đồng thực hiện thờ cúng (gia đình, dòng họ, làng xóm, vùng miền, ngành nghề, đất nước) nhằm thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa người sống với những người đã khuất. Qua ý kiến của các nhà khoa học, chúng ta có thể thấy rằng: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam được thể hiện ở 3 cấp độ chủ yếu: một là thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng tộc; hai là thờ những ông tổ nghề, tổ sư, người có công khai phá vùng đất mới, dựng làng, lập ấp, đánh giặc cứu dân… đã được nhân dân tôn vinh, thờ phụng là thành hoàng làng; ba là thờ vua như là vị thần của quốc gia dân tộc mà điển hình là thờ vua Hùng. 1.2.2. Đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang Từ khi Đảng, nhà nước ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước (năm 1986), đặc biệt từ khi có Nghị quyết số 24/NQTƯ ngày 16 tháng 10 năm 1990 về Công tác tôn giáo trong tình hình mới, sự cởi mở trong chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã tạo điều nhiều kiện thuận lợi cho các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng. Trong xu thế chung của các loại hình tín ngưỡng dân gian trên cả nước, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày cũng được phục hồi và có chiều hướng phát triển ngày càng đa dạng. Hiện nay, thờ cúng tổ tiên là hoạt động tín ngưỡng phổ biến trong các gia đình, dòng họ của người Tày. Mùng một, hôm rằm hàng tháng, vào các dịp lễ tết hay mỗi khi gia đình tổ chức các công việc lớn thì các gia đình đều làm lễ vật để thờ cúng tổ tiên. Lễ vật thờ cúng cũng rất đơn giản, nếu là ngày rằm, mùng một thì con cháu chỉ cần pha một ấm chè ngon, đặt chén nước, chén rượu lên bàn thờ tổ tiên rồi châm mấy nén hương thắp khấn các cụ về hưởng lễ. Ở người Tày lễ thờ cúng tổ tiên cũng tuỳ thuộc vào các ngày lễ tết, phụ thuộc vào mùa trong năm, mỗi ngày tết lại có những sản phẩm thờ cúng đặc trưng như rằm tháng giêng có bánh chưng, bánh khảo, bánh gai; đến tết tháng ba, tết tháng năm, tết tháng bảy có bánh trôi, bánh chay, bánh mật và một số loại hoa quả để thờ cúng tổ tiên. Nhìn chung các lễ vật

32. 27 thờ cúng của người Tày rất phong phú, có hương, hoa, quả, rượu, thịt. Đặc biệt cứ mỗi khi năm hết tết đến, mọi gia đình đều làm lễ mời tổ tiên về ăn tết cùng con cháu; chân hương được thay mới, đồ thờ được lau chùi sạch sẽ. Đêm giao thừa mọi gia đình người Tày đều làm mâm lễ cúng gia tiên để tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với tổ tiên. Nhiều gia đình, họ tộc có điều kiện kinh tế đã sắm sửa những bộ đồ thờ mới, cầu kì… đắt tiền hơn. Các gia đình người Tày không chỉ chú trọng tới bàn thờ gia tiên mà còn chú trọng chăm nom phần mộ của tổ tiên. Trước tết Nguyên Đán thì dòng họ người Tày thường tổ chức đi dọn dẹp mồ mả và thắp hương tại mộ. Tết thành minh mọi gia đình, họ tộc của người Tày đi tảo mộ theo tục xưa. Mộ phần được rẫy cỏ, vun đắp, sửa sang. Nhiều gia đình bỏ nhiều tiền của, thời gian, công sức tìm lại những ngôi mộ bị thất lạc trước đây, trong đó có cả hài cốt các liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh. Điều đó phản ánh việc tìm hài cốt thân nhân, đặc biệt là hài cốt các liệt sĩ là nhu cầu của một bộ phận không nhỏ đồng bào người Tày. Nhiều gia đình, dòng họ lớn có điều kiện kinh tế đã xây lại mộ phần của tổ tiên khá cầu kì. Nhiều dòng họ cũng đã khôi phục lại việc họ, thành lập ban liên lạc, viết và tìm lại gia phả, tổ chức lại việc giỗ họ. Việc giỗ họ của người Tày thường được tổ chức ở nhà con trai trưởng họ. Trong thời gian gần đây, việc giỗ họ của người Tày thường có sự tham gia của thầy cúng. Chính vì vậy, việc giỗ họ trở thành nề nếp và quy củ trật tự hơn (chủ yếu ở những dòng họ lớn và có điều kiện kinh tế khá). Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang hiện nay ta có thể thấy được những đặc điểm sau: Thứ nhất, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang gắn liền với truyền thống thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam, chủ yếu thờ cúng tổ tiên ở gia đình. Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng rất quan trọng trong đời sống của người Tày nói riêng và các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Tày – Thái nói chung. Việc thờ cúng tổ tiên trước hết xuất phát từ sự ghi nhớ công ơn nguồn cội có gắn với quan niệm về sự bất diệt của linh hồn con người sau khi chết. Người Tày quan

33. 28 niệm về sự tồn tại của linh hồn bên trong thể xác con người mà họ gọi là khoăn, tạm hiểu là vía. Khi con người ta chết đi thì không còn thể xác cho vía trú ngụ nữa nên vía sẽ chuyển hóa từ khoăn sang phi, tức là chuyển từ vía sang ma và được phân thành ba nơi. Ma người chết ở trên trời: Sau khi người ta chết đi, con cháu nhờ thầy cúng làm lễ thu gọi hồn vía đưa lên trời sống với ma gia đình và tổ tiên ở trên trời. Ma người chết ở trên bàn thờ tổ tiên: Người Tày quan niệm rằng con người ta chết đi nhưng hồn vía vẫn còn luẩn quẩn ở trong nhà theo dõi, giúp đỡ con cháu, các tổ tiên đời xa thì ít tác động trực tiếp đến con cháu hơn nên mới có sự chuyển hóa thành các thần trông cửa và thần coi gia súc cho gia đình. Ma người chết ở mồ mả: Con người chết đi, tuy thể xác thối rữa nhưng vẫn còn một bộ phận hồn vía quyến luyến thể xác mà luẩn quẩn ở quanh khu vực mồ mả nơi chôn cất thể xác. Trong bộ ba linh hồn của người chết (ma nhà, ma mồ mả, ma mường trời) thì ma nhà là tổ tiên trực tiếp của gia đình, do đó, con cháu phải lập bàn thờ để thờ cúng trong nhà vào những dịp lễ tết và những ngày quy định. Nơi thờ cúng tổ tiên ở trong nhà của người Tày là nơi trang nghiêm nhất. Bàn thờ tổ tiên của người Tày thường được lập cố định, ở chỗ trang trọng nhất hoặc gian giữa chính của ngôi nhà, đó là nơi linh thiêng, chỉ bày đặt đồ thờ cúng, không được để lẫn các thứ đồ vật khác. Chính giữa bàn thờ người ta đặt bát hương thờ tổ tiên, ngoài ra còn có thờ Phật Bà Quan Âm và thờ Bà Mụ. Trong cách trang trí bàn thờ có gia đình trang trí cầu kỳ, cẩn thận, bàn thờ làm bằng gỗ tốt và có những trạm khắc rất công phu trông uy nghi nhưng cũng có gia đình trang trí đơn giản, sơ sài (chỉ là một bàn thờ đóng bằng gỗ đơn sơ). Thờ cúng tổ tiên giữ vị trí quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của người Tày. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Tày thờ tổ tiên ba đời trên mình: bố mẹ, ông bà và các cụ. Ba đời này đều được thờ chung trong một bàn thờ, tuy nhiên từ đời thứ tư là kỵ thì theo quan niệm của người Tày, biến thành vị thần coi giữ gia súc, có bàn thờ đặt ở ngoài trời, cúng vào dịp tết Nguyên Đán.

34. 29 Ở người Tày Tuyên Quang, khi thân nhân mới chết (cha, mẹ, ông, bà…) thì không được cúng lễ ngay ở bàn thờ tổ tiên, mà phải thờ riêng ở góc hay ở dưới thấp nơi thờ tổ tiên. Hàng ngày, thân chủ phải thắp hương, bày cơm cúng lễ hai bữa. Phải sau khi mãn tang (có nơi là 3 năm, có nơi chỉ một năm) mới nhập bát hương vào thờ cúng với tổ tiên. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang gồm có hai loại là nghi lễ thường kỳ và nghi lễ bất thường. Nghi lễ thường kỳ là các nghi lễ mang tính chất truyền thống theo lịch tiết quy định hàng năm. Trong các ngày lễ tết, thắp hương bàn thờ mời tổ tiên hưởng lễ là việc làm không thể thiếu của mỗi gia đình. Tính theo âm lịch, người Tày cúng tổ tiên ở ba tết lớn, đó là: Tết Nguyên Đán, tết Tảo mộ 3/3 và tết 14/7. Vào những ngày này, các gia đình thường mổ lợn, gà, vịt, làm các món ăn ngon để cúng tổ tiên. Nghi lễ bất thường có nhiều loại. Trong đó, đặc biệt có nghi lễ tạ tổ. Khi gia đình gặp hoạn nạn hoặc có người ốm đau, hoặc có gia súc chết… gia chủ xem bói, nếu thầy phán rằng tổ tiên quở trách, họ phải sắm lễ vật nhờ thầy làm lễ cúng tạ tổ tiên tại nhà hoặc tại mộ. Ngoài ra, vì tổ tiên được coi là vị thần bản mệnh, có vai trò quan trọng đối với sự hưng thịnh của gia đình nên mỗi khi các gia đình có việc lớn như cưới xin, ma chay, làm nhà, thậm chí có con cháu đi làm ăn hoặc học tập ở xa… họ đều phải sắm lễ vật hoặc thắp hương trình báo, xin phép tổ tiên, cầu xin tổ tiên phù hộ. Ngoài thờ cúng tổ tiên trong gia đình ra, ở một số dòng họ Tày còn có tục thờ dòng họ, nơi thờ dòng họ của các gia đình Tày được chọn tương đối đa dạng, có thể là một gốc cây, một góc rừng, hay một nhà thờ họ. Nhìn chung, so với việc thờ cúng tổ tiên gia tộc, việc thờ cúng dòng họ của người Tày ở Tuyên Quang không phổ biến. Bởi không phải bất cứ dòng họ nào, bất cứ địa phương người Tày nào trong tỉnh Tuyên Quang cũng có tục thờ cúng dòng họ. Đối với những người làm nghề thầy cúng Tày, ngoài thờ cúng tổ tiên gia tộc như các gia đình khác ra, họ còn thờ tổ sư là những người truyền nghề thầy cúng cho tổ tiên gia đình. Những gia đình làm nghề cúng bái (Tào, Then, Pụt), hái thuốc,

35. 30 chữa bệnh, săn bắn… cũng có riêng một bát hương (thờ tổ sư) được đặt cùng với gian thờ tổ tiên nhưng ở vị trí cao hơn và đặt chính giữa để phù hộ cho các công việc hành nghề. Vào các dịp lễ tết có mâm cúng đồ chay, đối với các thầy Tào, Then, Pụt sau mỗi lần đi làm lễ cho gia đình nào đó, thì thường lấy về con gà, gạo, tiền đã cúng, lễ này khi mang về đến nhà để làm lễ cúng thắp hương, niệm vài câu thần chú và trịnh trọng đặt lên bàn thờ tổ sư nghề với hàm ý tạ ơn thần thánh đã giúp thầy hoàn thành công việc, nếu các thầy không có gà mang về, thì phải tự bắt gà nhà làm thịt để cúng và trả ơn các thánh thần. Người Tày ở Tuyên Quang còn có tục thờ thần Thổ công. Nhìn chung, việc thờ thổ công ở mỗi làng bản của người Tày đều có ý nghĩa là thờ người có công khai làng, lập bản hoặc thờ người có công với dân bản được dân bản coi là tổ tiên của bản. Ngoài ra, ở nhiều địa phương Tày còn có quan niệm tổ tiên gia đình sau ba đời trở lên có thể hóa thành thần Thổ công trông coi làng bản. Vì vậy, có thể nói Thổ công cũng chính là thần tổ tiên xa của các gia đình và cũng có nghĩa là những người đã từng có thời gian ở lâu trong bản. Trong quan niệm của người Tày, Thổ công được hình dung như một vị trưởng lão đáng kính của bản, các công việc lớn bé trong nhà, ngoài bản đều phải hỏi ý kiến của ông. Vì vậy, ở nhiều khu vực của Tuyên Quang người Tày có tục ngày 30 tết các gia đình làm cỗ mang ra cúng mời Thổ công ăn tết trước với ý nghĩa tôn kính. Chỉ sau khi mời Thổ công ăn tết rồi cả bản mới chính thức được ăn tết. Chẳng hạn ở làng Khuân Nhự, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hoá có thờ ông Đán Khao và Phù Mi Người Tày ở Tuyên Quang cũng luôn tham gia nhiệt tình vào lễ hội Đền Hùng 10/3 âm lịch. Như vậy, cũng như người Việt, thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng rất quan trọng trong đời sống người Tày nói chung và người Tày ở Tuyên Quang nói riêng. Đối tượng thờ cúng ở đây không chỉ là tổ tiên trong gia đình, tổ tiên dòng họ mà còn cả người có công với dân tộc, tổ ngành nghề, người khai làng lập bản… Tuy nhiên, thờ cúng tổ tiên trong gia đình vẫn là cơ bản và chủ yếu nhất, vì nó nói lên được ý nghĩa sinh thành của các bậc tiền bối đối với hậu sinh. Vì vậy, từng gia đình người Tày ở Tuyên Quang đều rất coi trọng các nghi lễ đó.

37. 32 ta lấy lúa mới mang về phơi khô, xay giã thành gạo trắng, rồi nấu cơm vừa dẻo vừa thơm ngon. Nơi nào chưa kịp thu hoạch lúa mới thì ra ruộng chọn bông lúa đã chín về hấp rồi rang khô giã lấy một ít gạo mới trộn với gạo cũ để nấu cơm, có nơi để mươi bông lúa mới hấp trên nồi cơm mang tính tượng trưng. Sau đó, mang cơm mới cùng mâm thức ăn gồm thịt, cá, rau, củ, rượu…, các món xôi, nhất là xôi trám đen, xôi vừng… bày lên bàn thờ gia tiên cúng. Chủ gia đình khấn lạy trước bàn thờ, kể về công lao của tổ tiên và các gia thần đã phù hộ, công thành đã tới và mong các linh thần tiếp tục theo dõi, phù giúp cho công việc gia đình về sau. Như vậy, xuất phát từ những mong muốn thật bình thường, giản dị nhưng rất giàu tính nhân văn và thực tiễn, mà cư dân Tày ở Tuyên Quang đã tiến hành những nghi lễ, động thái vừa mang tính tưởng nhớ; vừa mang hình thức phụng dưỡng tổ tiên hoặc báo cáo tổ tiên như trong đời thường. Điều đó đã được gắn liền với các phong tục tập quán bản địa nhằm nhân lên giá trị nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang. Thứ ba, ngoài các yếu tố bản địa, thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Những ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo với dân tộc Tày ở Tuyên Quang không chỉ đơn thuần qua các dân tộc ở nam Trung Quốc, nhất là qua người Hán, mà không ít các ảnh hưởng lại từ người Việt ở Đồng bằng bắc bộ. Do vậy, các ảnh hưởng này không thuần nhất mà mang tính pha tạp từ nhiều nguồn, qua nhiều tầng bậc khác nhau. Trong những ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo thì có lẽ ảnh hưởng của Đạo giáo là rõ rệt hơn cả. Đạo giáo còn gọi là Lão giáo, do Lão Tử sáng lập từ các thế kỷ trước công nguyên. Trong quá trình phát triển sau này, hình thành hai khuynh hướng Lão học nặng về các triết lý về vũ trụ âm dương và Đạo giáo của Trường Đạo Lăng được phổ biến trong dân gian với các hình thức ma thuật, tu tiên, luyện đan. Chính dòng Đạo giáo này đã ảnh hưởng nhiều tới tín ngưỡng dân gian của dân tộc Tày.

38. 33 Người Tày ở Tuyên Quang tuy không lấy Đạo giáo làm tôn giáo riêng, nhưng họ luôn đề cao vai trò của thầy Tào. Bởi trong quan niệm của người Tày, sự báo hiếu của con cái đối với tổ tiên được thể hiện rõ nhất thông qua các nghi lễ trong tang ma. Lễ tang của người Tày do thầy Tào chủ trì, để đưa linh hồn từ địa ngục về với tổ tiên theo triết lý của Đạo giáo. Vì vậy, thông qua tang ma, thầy Tào phần nào đã đưa Đạo giáo thấm sâu dần vào văn hóa Tày. Cũng dễ hiểu khi trong mọi công việc hiếu, hỷ, cộng thêm ảnh hưởng của nghìn năm Bắc thuộc, tư tưởng vũ trụ quan, cõi sống, cõi chết theo quan niệm của Đạo giáo, đã chi phối rất mạnh mẽ đời sống tinh thần của người Tày. Đây là nét đặc biệt trong tín ngưỡng của họ. Đạo giáo chia vũ trụ làm ba tầng: Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên. Người Tày cũng tiếp nhận ba cõi tương ứng: Trời, trần gian, địa phủ. Thầy cúng ở giữa thay mặt cho nhân gian – con người để giao tiếp và dâng lễ lên các vị thần linh trên cả ba cõi. Trong nghi lễ cúng của thầy Tào, ngoài sự chi phối của nghi thức và triết lý Đạo giáo, ta vẫn thấy đọng lại yếu tố phép thuật và bùa chú. Chẳng hạn, trong nhà có người mất thầy Tào khi đi làm lễ ở bên ngoài ngôi nhà, phải khóa hồn trong dải vải trắng để tà ma và phép thuật của thầy Tào cao hơn không làm hại thầy và tang chủ. Trong hệ thống các nghi lễ tang ma của người Tày hầu như đều mang âm hưởng của Đạo giáo và Phật giáo. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ chúng tôi vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau từ những năm đầu công nguyên và phát triển cực thịnh từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống Việt Nam. Người Tày tuy không lấy Phật giáo làm tôn giáo riêng của mình, nhưng quan niệm triết lý nhân sinh Phật giáo lại ảnh hưởng và chi phối rất lớn trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đồng bào. Trong xã hội Tày ở Tuyên Quang không tồn tại thứ Đạo Phật với hệ thống chùa và sư sãi, Phật Tử. Nơi đây những người làm nghề cúng bái: “Tào”, “Mo”, “Then”, “Pụt” họ vốn là những tín đồ Đạo giáo, nhưng khi cúng lại sử dụng sách cúng, kinh kệ, tụng kinh Phật, cầu khấn Phật tổ Thích ca Mâu Ni và Thái thượng

39. 34 Lão quân. Họ là những thầy pháp Sharman đã được thụ phong, cấp bằng, cấp sắc, ấn tín của Đạo giáo, nhưng lại sử dụng các yếu tố ngũ giới của Phật Giáo để làm tăng thêm sức mạnh cho mình. Vì vậy, khi ngồi thụ phong cấp sắc, họ đã phải làm lễ tuyên thệ: “Không đánh cha (mẹ), không hiếp dâm, không ăn trộm, ăn cắp, không loạn ngôn, không sát sinh hại mệnh”. Những tuyên thệ đó chính là một phần trong giới luật của Phật Giáo. Như vậy, cái vỏ bên ngoài là tín đồ Đạo giáo, các thầy “Tào”, “Mo”, “Then”, “Pụt” đã được trang bị thêm cái lõi Phật giáo. Phật giáo ảnh hướng tới quan niệm của người Tày trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở chỗ: Đồng bào Tày cũng coi cái chết là kết thúc một chu kỳ đời người trên cõi trần gian, để bước vào thế giới vĩnh hằng. Chết chỉ là bắt đầu của sự sinh mới, đưa con người tới kiếp sống tốt hơn, đó là vòng luân hồi của sự sống. Tuy nhiên, muốn tổ tiên của mình có được sự sống tốt hơn sau khi chết thì con cháu phải làm lễ cầu cúng, rửa sạch tội lỗi nơi trần gian, đưa hồn tổ tiên vượt qua các cửa ngục siêu thoát, đầu thai kiếp khác như quan niệm vòng luân hồi trong tư tưởng Phật giáo. Trên bàn thờ của người Tày ngoài thờ tổ tiên, đồng bào còn thờ Phật Bà Quan Âm. Vị thần này gốc là từ Phật giáo, nhưng đã được dân gian hoá, hoà nhập với cả Đạo giáo, biểu tượng cho quyền năng cứu vớt, che chở cho con người khỏi tai hoạ, rủi ro. Phật Bà Quan Âm không chỉ được thờ ở vị trí cao nhất trên bàn thờ của gia đình mà còn được thờ ở một số ngôi đình, đền của người Tày. Các quan niệm của đạo Phật về từ bi, bác ái, nhân quả, luân hồi, tu nhân tích đức cũng ít nhiều ảnh hưởng tới quan niệm đạo đức và cách ứng xử của người Tày trước tổ tiên. Thực ra, đây cũng là các quan niệm nếu không phải có gốc gác từ dân gian thì cũng phù hợp với quan niệm dân gian, do vậy nó rất dễ hòa nhập và đón nhận vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày. Về phương diện tín ngưỡng, Nho giáo cũng có ảnh hưởng tới tín ngưỡng Tày qua việc thờ cúng tổ tiên và tục thờ Thành Hoàng. Nho giáo là học thuyết trị quốc do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng lập. Mặc dù, Khổng Tử tỏ thái độ hoài nghi đối với quỷ thần: Chưa biết được việc thờ người, làm sao biết được việc thờ quỷ thần, hoặc chưa biết được việc sống làm sao biết được việc chết, nhưng Khổng Tử lại rất coi

40. 35 trọng việc cúng tế, thờ cúng. Quan điểm đạo đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng và quan điểm trọng nam, tôn ti trật tự thứ bậc trong gia đình, xã hội của Khổng Tử đã đi vào đời sống của người Tày, trở thành chuẩn mực xã hội. Thờ cúng tổ tiên vốn là tín ngưỡng bản địa của người Tày, tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận những ảnh hưởng Nho giáo về các quan niệm và nghi thức thờ cúng, cách ứng xử thân tộc theo dòng cha, quyền trưởng nam, nghi lễ cúng giỗ, cố kết và quan hệ dòng họ… Bên cạnh đó, văn tế, văn sớ, sách cúng của thầy Tào đều bằng chữ Hán. Các bước trong tang lễ đều cho thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo rõ nét. Hình ảnh người trưởng nam tế lễ, đốt tiền vàng, trải vôi tro, cõng nước, cõng bài vị tiễn đưa người quá cố…. đều mang đậm ảnh hưởng tư tưởng Nho gia. Trong các nghi lễ tang ma, người Tày luôn quan tâm đến vai trò của tổ tiên trong việc, đón, chăm sóc, che chở cho linh hồn và con cháu. Đó cũng là tâm nguyện của cư dân để hành động thờ cúng tổ tiên luôn chu toàn và kính trọng. Nhìn chung, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang đã chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Sự giao lưu, ảnh hưởng, pha trộn này rất sâu sắc, một mặt làm biến dạng và nâng cao tín ngưỡng bản địa, mặt khác cũng làm thay đổi bản thân loại hình tôn giáo dung thông đó, đã làm cho không còn sự tồn tại nguyên si của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo từ Trung Quốc xuống hay từ người Việt lên. Thứ tư, thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang có sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp biến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của các tộc người khác. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, có nhiều dân tộc thiểu số sống xen kẽ trong từng bản, thôn, xóm ở các xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa thuộc các huyện vùng cao, miền núi phía bắc của tỉnh (như: Na Hang, Lâm Bình, Chiêm Hoá, Hàm Yên…). Đồng bào dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang (Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Mông, Nùng, Hoa) do phân bố ở những nơi địa hình hiểm trở, khó khăn nên chất lượng cuộc sống (vật chất, tinh thần) còn thấp so với đồng bào Kinh. Đồng bào dân tộc thiểu số sống trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đều theo tín ngưỡng truyền thống là thờ tổ tiên. Tuy nhiên, mỗi dân tộc có quan niệm, mức độ tín ngưỡng và

41. 36 hình thức thể hiện tín ngưỡng khác nhau điều đó đã tạo nên bản sắc văn hóa đa tộc người ở Tuyên Quang rất đa dạng. Ngoài ra, do chung sống xen kẽ giữa đồng bào dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số nên có sự giao thoa, dung hợp lẫn nhau về văn hóa giữa các dân tộc, đặc biệt là sự giao thoa giữa người Tày với người Kinh, người Tày với người Nùng, người Hoa trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện rõ nét nhất. Giao lưu kinh tế, văn hóa là một quy luật khách quan của lịch sử, phát triển do yêu cầu nội tại của từng dân tộc. Về mặt văn hóa, quan hệ giữa người Tày với người Kinh diễn ra sớm với tốc độ khá nhanh. Người Kinh tiếp thu văn hóa của người Tày và ngược lại người Tày cũng không ngừng tiếp thu những truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Kinh, làm cho văn hóa của mình thêm phong phú. Quá trình giao lưu diễn ra không chỉ trong hoạt động sản xuất vật chất, trong văn học dân gian, giao lưu về ngôn ngữ mà còn diễn ra ngay cả về mặt tín ngưỡng. Bên cạnh miếu thờ Thổ công, người Tày còn có miếu thờ Thành hoàng làng, chùa thờ Phật và hệ thống đền, miếu – là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa Tày – Kinh. Bên cạnh các tuần lễ, bài sớ, văn xướng tế, hát cửa đình của văn hóa dân tộc Kinh thì một trong những lễ vật thờ cúng tổ tiên là Bánh chưng trong những ngày tết thì không gia đình Tày nào không gói. Trong quá trình giao lưu văn hóa giữa dân tộc Kinh với dân tộc Tày không chỉ là tiếp nhận mà còn ảnh hưởng trở lại đối với đời sống văn hóa của nhau. Ví như một số gia đình người Kinh thường mời các thầy Tào người Tày về làm lễ cầu an, giải hạn. Ngược lại, một số gia đình người Tày ở huyện Lâm Bình cũng đón thầy cúng người Kinh lên làm lễ giải hạn, tìm mộ phần thất lạc. Như vậy, trong quá trình cộng cư lâu đời giữa người Tày và người Kinh đã hình thành một mối quan hệ giao lưu một cách tự nhiên diễn ra trên nhiều mặt. Ngày nay, trong điều kiện xã hội đã có nhiều thay đổi, mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa người Tày với người Kinh càng diễn ra mạnh mẽ hơn, xu hướng hòa hợp thống nhất về văn hóa giữa người Tày với người Kinh và với một số dân tộc anh em đang diễn ra mạnh mẽ là một tất yếu lịch sử.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Taxi Tuyên Quang: Danh Bạ Số Điện Thoại Các Hãng Taxi Ở Tuyên Quang trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!