Cập nhật nội dung chi tiết về Tìm Hiểu Nguyên Phi Ỷ Lan Qua Tài Liệu Mộc Bản Triều Nguyễn mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tìm hiểu Nguyên phi Ỷ Lan qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản Triều Nguyễn là những bản gỗ khắc chữ Hán – Nôm ngược dùng để in ra thành sách, được sử dụng rộng rãi dưới thời phong kiến. Với những giá trị đặc biệt về nội dung, nghệ thuật, kỹ thuật chế tác và tính duy nhất của khối tài liệu này vào ngày 31/7/2009 tổ chức UNESCO đã công nhận Mộc bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu thế giới. Nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, chúng tôi xin giới thiệu đến các nhà nghiên cứu và độc giả một số tấm Mộc bản khắc về Nguyên phi Ỷ Lan – người phụ nữ có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển rực rỡ về nhiều mặt của vương triều nhà Lý cũng như nền văn hóa nước nhà.
Bản gốc, bản dập Mộc bản khắc về Nguyên phi Ỷ Lan
Từ cô gái hái dâu đến địa vị tôn quý nhất
Ỷ Lan là người họ Lê, quê ở hương Thổ Lũy (Thổ Lỗi), Thuận Thành, Bắc Ninh. Nguồn gốc chuyện tiến cung của bà đã được sử sách ghi chép lại như sau: “Ỷ Lan Nguyên phi người họ Lê, quê ở Thổ Lũy thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vua Thánh Tông nhà Lý tại vị lâu ngày, tuổi đã tới 40 mà chưa có con nối dõi. Cầu tự nhiều nơi vẫn chưa thấy kết quả. Nhân đi tham quan tại các chùa nhiều nơi trong nước, tới đâu trai gái trong vùng đều rủ nhau tới chiêm vọng nhà vua không ngớt. Chẳng dè nhà vua bắt gặp một cô gái hái dâu đang đứng dựa trong đám cỏ lan. Liền triệu vào cung, và sau được nhà vua yêu quý, bèn đặt tên là “Ỷ Lan Phu nhân” (Phu nhân đứng dựa cỏ lan)”. (Sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, Quyển 3, mặt khắc 2).
Mùa xuân, năm 1066, Ỷ Lan Phu nhân hạ sinh hoàng tử Lý Càn Đức, được phong làm Thần phi. Năm 1068, bà lại sinh ra Minh Nhân Vương, Vua Lý Thánh Tông phong Thần phi làm Nguyên phi, đứng đầu các phi tần trong hậu cung chỉ sau Hoàng hậu.
Khác với các hậu phi khác, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc làm chính mà chỉ miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi nên chỉ trong một thời gian ngắn triều thần đã kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của bà. Với hai lần buông rèm nhiếp chính, sử sách đã ghi nhận bà có công lao to lớn trong việc ổn định và phát triển đất nước dưới vương triều nhà Lý.
Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh cầm quân đi đánh giặc phương Nam đã trao quyền nhiếp chính, điều khiển chính sự ở triều đình cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn, thử thách quá lớn đối với vị nữ nhiếp chính còn rất trẻ. Nhưng nhờ kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán, táo bạo, loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống.
Vua đánh giặc lâu ngày không thắng bèn giao binh quyền cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Dọc đường về nhà vua nghe quan lại và dân chúng ca ngợi Nguyên phi có tài trị nước, an dân. Sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập chép:“Nhà vua nói: một người đàn bà còn làm được như thế, ta phái tu mi nam tử nghĩ sao? Thế rồi nhà vua đem quân trở lại đánh Chiêm Thành lần nữa. Quả nhiên thắng trận, bắt được vua Chiêm là Chế Củ”.(Quyển 3, mặt khắc 3).
Năm Nhâm Tý (1072), Lý Thánh Tông băng hà, Hoàng Thái tử Càn Đức lên ngôi, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy, vua mới lên 7, Ỷ Lan tiếp tục buông rèm nhiếp chính lần 2, vừa giúp việc triều chính vừa làm nhiệm vụ dạy dỗ con thơ. Trong khi vua còn thơ ấu, Ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi. Ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy, Ỷ Lan đã cùng triều thần nhà Lý giữ vững giang sơn, xã tắc, công ấy đời sau còn nhắc mãi.
Ỷ Lan không chỉ sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, chăm lo việc mở mang dân trí, ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân mà còn khuyên bảo vua làm điều thiện trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của người nông dân khi việc nông trang không có trâu cày bừa, bà đã đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi. Vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh phạt rất nặng những người trộm trâu và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm vì tội không tố giác. Việc này đã được ghi chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Là một người phụ nữ sáng danh trong lịch sử nước nhà – Nguyên phi Ỷ Lan ngoài tài trị quốc an dân, chống giặc ngoại xâm, còn đóng vai trò quan trọng trong việc chấn hưng Phật giáo. Bà là người sùng Phật, am hiểu về Phật pháp và đã cho xây dựng nhiều chùa chiền ở khắp nơi.
Tuy nhiên, trong cuộc đời của người phụ nữ huyền thoại này cũng không tránh khỏi những “góc khuất”, thậm chí là “tỳ vết”. Đó chính là việc bức hại Thái hậu Thượng Dương và 72 cung nữ vào năm 1073. Cũng vì thảm án kể trên mà những nhà chép sử khi xưa tỏ ra khá dè dặt khi đề cập đến Nguyên phi Ỷ Lan. Ngày nay, các nhà nghiên cứu nhận định rằng trong sự nghiệp làm chính trị và đặc biệt là dưới chế độ phong kiến thì đó cũng là chuyện thường thấy.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Ỷ Lan qua đời, thọ 74 tuổi, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Phúc.
Ỷ Lan với thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến
Bên cạnh công lao ổn định và phát triển đất nước, gần đây các nhà nghiên cứu bàn nhiều về một khía cạnh khác ít được nhắc đến trong cuộc đời lẫy lừng của Nguyên phi Ỷ Lan. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam có một “chương trình quy mô quốc gia” giải quyết tình trạng “không vợ, không chồng” của người dân.
Xuất thân là một thôn nữ, hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân vì nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà đã cho xuất tiền ở kho Nội phủ chuộc họ về, gả cho những người đàn ông góa vợ hoặc người nghèo khó không đủ tiền cưới vợ. Sách Đại Việt sử ký của sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu có viết “Năm Quý Mùi niên hiệu Long Phù năm thứ 3 (1103), mùa xuân, Thái hậu phát tiền ở kho Nội phủ để chuộc những con gái nhà nghèo đã phải bán đi ở đem gả cho những người góa vợ”. Cũng từ sự kiện này, sử gia Ngô Sỹ Liên đã có lời bàn: “Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ, đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu đổi mệnh cho họ cũng là việc chân chính vậy”. Việc này cũng được khắc trong Mộc bản triều Nguyễn.
Ở địa vị tột đỉnh hiển vinh nhưng Ỷ Lan vẫn không quên cảnh ngộ của những người phụ nữ nghèo hèn, những người đã và đang sống cuộc đời còn cơ cực hơn thuở hàn vi của bà. Thương cảm cho bao số phận cung nữ phí hoài tuổi thanh xuân trong cung cấm, bà đã cho xuất cung rất nhiều người và gả chồng, tạo lập gia đình cho họ.
Điều gì khiến một người phụ nữ có được những suy nghĩ khác lạ nhưng cũng đầy tính nhân bản trong thời kỳ phong kiến hà khắc về tình cảm cá nhân như vậy? Phải chăng chính cốt cách vốn có của bà cùng những cảnh đời bà đã gặp qua khi còn là thôn nữ, những hiểu biết về xã hội, về nhân tình thế thái đã giúp bà hiểu, đồng cảm hơn với những thân phận con người cùng khổ, đặc biệt là thân phận người phụ nữ. Thường thì sự giàu có về kinh nghiệm sống, giàu có về tri thức mới đem lại sự phong phú về mặt tâm hồn. Bên cạnh đó các nhà sử học còn cho rằng, sở dĩ bà có được một tâm hồn như thế một phần cũng nhờ vào tư tưởng bình đẳng của Phật giáo. Và trên hết đó là trái tim của một người phụ nữ vĩ đại không chỉ mong muốn giải phóng và mang lại hạnh phúc cho phụ nữ mà còn mang lại sự bình ổn về giới, nền tảng cơ bản để xã hội tồn tại trong một hình thái đẹp nhất – cân bằng âm dương. Để không ai bị ẩn ức, không ai bị cô đơn, không ai thấy mình là vật thừa của con tạo. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam quan tâm đến phụ nữ nói riêng và sự cân bằng về giới nói chung.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, bên cạnh những đấng anh hào thì dân tộc ta cũng đã sản sinh nhiều bậc nữ nhi mà những đóng góp của họ đã được sử sách và người đời ghi nhận, tạo nên truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam. Như trong bức thư gửi phụ nữ nhân ngày 8/3/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rạng rỡ”.
Hồ sơ H97/4, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, 2004, NXB Khoa học Xã hội.
Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, Tóm tắt Niên biểu lịch sử Việt Nam, 2009, NXB Văn hóa Thông tin.
Lê Thị Huệ (Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)
Đền Nguyên Phi Ỷ Lan
1. ĐỀN NGUYÊN PHI Ỷ LAN
Tìm hiểu một chút qua những giai thọai lịch sử về Nguyên Phi Ỷ Lan để biết tại sao bà nổi tiếng là tài năng và đức độ như vậy:
Nằm ở phía tay trái, trước cửa đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan là đôi rồng chầu bằng đá phủ phục, với đường nét, chạm khắc hết sức tinh xảo.
4.
Đền thờ được xây dựng từ cuối thế kỷ XI, là nơi phụng thờ bà ngay trên quê hương của mình. Đền có kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc loại cổ nhất nước ta, cách không xa đền phía tay phải có chùa mang tên: “Linh Nhân tư Phúc Tự” do chính Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xây dựng cùng với hàng trăm ngôi chùa khác, được khánh thành tháng 03 năm Ất Mùi (1115).
5.
Ngay cạnh đền là chùa Tư Phúc do nguyên phi Ỷ Lan cho xây dựng năm 1115. Đền và chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quí như: Ba chân tảng đá chạm cánh sen, hai đầu sư tử đá, một thành bậc chim phượng đều ở thời Lý, bốn tấm bia đá thời hậu Lê, một khám thờ chạm rồng uốn khúc yên ngựa, chạm thủng hoa văn linh vật thời Mạc, năm hoành phi, hai câu đối ca ngợi công đức của thái hậu Ỷ Lan.
Hàng năm cứ vào dịp từ 19 đến 21 tháng 2 âm lịch, du khách thập phương lại hành hương về Dương Xá tham dự lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày Nguyên phi Ỷ Lan đăng quang và ngày 24, 25 tháng 7 âm lịch, ngày mất của bà. Tất cả cùng về thắp hương tưởng niệm, nhớ về người phụ nữ có tài kinh bang tế thế, từng đã 2 lần nhiếp chính trông coi việc nước mà người phụ nữ đã nổi danh trong lịch sử nước nhà.
(VOV) – Chùa Dâu tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km. Chùa có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự. Nơi đây là trung tâm thành cổ Luy Lâu từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:Dù ai đi đâu về đâu Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về, Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu
Theo ghi chép trong sách sử và bia đá, đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống. Chùa được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 (khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân nên gọi là chùa Pháp Vân và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.
Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới Dâu – tức Luy Lâu tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác, phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong đó chùa Dâu là trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Chùa Dâu trở thành trung tâm của Thiền phái Tì ni đa lưu chi – Thiền phái đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính hình chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc.
Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.
Tháp Hòa Phong Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Từ “Hoà Phong” có nghĩa là ngọn gió mát mẻ, tốt lành.
Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương – 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời- cao 1,6 m ở bốn góc
Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Điều này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt không có con cừu. Truyền sử kể rằng: vào thời Luy Lâu còn là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo Phật. Ông dắt theo 2 con cừu. Một hôm sơ ý để 2 con đi lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc đến lăng Sĩ Nhiếp (thái thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu bằng đá ở nơi chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay chùa Dâu có 1 con, lăng Sĩ Nhiếp (cách đó 3 km) có 1 con.
Trải qua bao biến động lịch sử, thành lũy, đền dài, dinh thự của trung tâm Luy Lâu bị hoang phế. Nhưng chùa Dâu với tháp Hòa Phong vươn cao và hàng trăm gian chùa cổ kính vẫn tồn tại với thời gian. Lịch sử đã từng khẳng định vị trí của chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh dân tộc. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia.
Chỉ dẫn đường đi: Cùa Dâu nằm trên địa phận xã Thanh Khương – Thuận Thành – Bắc Ninh. Có thể tới chùa bằng nhiều đường, tuy nhiên đường ngắn nhất tính từ trung tâm TP Hà Nội là: Cầu Chương Dương- Đường Nguyễn Văn Cừ – Cầu Chui – đường QL 5 – tỉnh lộ 181 – Dương Xá ( Gia Lâm ) – Phú Thị ( Gia Lâm ) – Thuận Thành – Phố Dâu – Chùa Dâu.
18 vị La Hán trong chùa
Các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện sau chùa chính
Tư liệu tổng hợp. Ảnh Lê Bích
3. CHÙA BÚT THÁP
Năm 1876, vua Tự Đức khi đi qua đây thấy một ngọn tháp hình cây bút khổng lồ vươn lên trời xanh liền đặt tên là Bút Tháp…
Khi nói về các danh thắng của đất Kinh Bắc, không thể không nhắc tới chùa Bút Tháp. Ngôi chùa nổi tiếng này còn được gọi là Ninh Phúc tự, nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, ngày nay thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Theo các tư liệu lịch sử, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Đến thế kỷ 17, chùa trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, người sang Việt Nam hoằng bá Phật pháp từ năm 1633. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”.
Sau khi Hòa thượng Chuyết Chuyết viên tịch, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã rời bỏ cung thất về chùa tu hành. Thấy chùa xuống cấp nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên xin Chúa Trịnh Tráng bỏ tiền của ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, việc trùng tu hoàn thành. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Năm 1876, vua Tự Đức khi đi qua đây thấy một ngọn tháp hình cây bút khổng lồ vươn lên trời xanh liền đặt tên tháp là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi tên gốc của ngọn tháp là tháp Bảo Nghiêm. Từ đó ngôi chùa và thôn xóm quanh chùa mang tên là Bút Tháp. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp.
Trong lịch sử của mình, chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa được đánh giá là có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam. Chùa cũng là nơi lưu giữ tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất, một tuyệt tác điêu khắc cổ đã được công nhận là bảo vật Việt Nam.
Một số hình ảnh Đất Việt ghi nhận về chùa Bút Tháp:
Bút tháp là một trong số ít những ngôi chùa cổ có kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”, được xây dựng trên quy mô lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay..
Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường “Thần Đạo” và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên.
Điểm nhấn kiến trúc của chùa là tháp Bảo Nghiêm, hay Bút Tháp, nơi thờ Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp cao 13,05 m, gồm 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh. Ngoài tầng đáy rộng hơn, 4 tầng trên gần giống nhau, rộng 2m. 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m.
Phần chân tháp được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài chủ yếu là các con thú.
Ngọn tháp là minh chứng cho tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
Một nét kiến trúc đặc sắc khác là chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn từ thượng điện đến ngôi tòa nhà Tích Thiện am, một công trình cấu tạo khung gỗ có 3 tầng mái.
Hai bên cầu là hai hồ nhỏ thông nhau, có trồng cây thủy sinh, tạo nên sự hài hòa giữa vẻ đẹp kiến trúc và thiên nhiên.
Cũng như tháp Bảo Nghiêm, cầu đá là nơi hội tụ của nhiều bức phù điêu và tượng đá giàu tính nghệ thuật.
Chùa Bút Tháp là nơi lưu giữ tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656, hiện được công nhận là bảo vật quốc gia. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng – nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng ngôn ngữ tạo hình hàm súc.
Gác chuông chùa có 2 tầng, 8 mái.
Một góc sân chùa nhìn từ gác chuông.
Vườn tháp tổ, nơi lưu giữ di cốt của các thiền sư từng tu hành tại chùa.
Văn bia của chùa.
Nghê đá ngoài cổng Tam quan.
Cách Hà Nội gần 30km, nằm ấp mình bên bờ đê phía nam của dòng sông Đuống hiền hoà, nghiêng trôi một “dòng lấp lánh”, làng tranh Đông Hồ đã trải qua biết bao thăng trầm để cố giữ cho “hồn dân tộc” mãi được “sáng bừng trên giấy điệp”. (GNO-Bắc Ninh): Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).Đầu xuân về thăm làng tranh Đông Hồ
5. ĐỀN THỜ KINH DƯƠNG VƯƠNG
Ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có khu đền thờ và lăng mộ một đế vương, thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.
Lăng mộ Kinh Dương Vương
Đền Kinh Dương Vương
Thời Lê Thánh Tông, sử gia Ngô Sĩ Liên chép “Kỷ Hồng Bàng”: “Tổ tiên người Việt có vua đầu gọi là Kinh Dương Vương tinh thần đoan chính, có đức tính của thánh nhân. Vương lấy con gái thần Động Đình sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trứng nở ra thành 100 con. Lạc Long Quân mang 50 con đi khai phá miền biển, Âu Cơ mang 50 con đi khai phá miền núi. Con trưởng nối ngôi là Hùng Vương, đặt quốc hiệu là Văn Lang, định đô ở Phong Châu, chia thành 15 bộ. Hùng Vương trải 18 đời”. Kỷ Hồng Bàng kéo dài từ năm 2879 đến năm 258 trước công nguyên.
Đền thờ Kinh Dương Vương nằm ở khu đất thoáng rộng ở giữa thôn Á Lữ, rộng đến 3.000m2, cảnh quan rất đẹp. Bên trong hậu cung đền có ba ngai thờ: Ngai Kinh Dương Vương đặt ở gian giữa, ngai Lạc Long Quân ở bên phải, ngai Âu Cơ đặt ở bên trái. Ngoài các đồ thờ cúng, đền có lưu giữ 15 đạo sắc phong thời Nguyễn, khẳng định đền thờ Kinh Dương Vương là lăng tẩm đế vương bằng chữ Hán, có một sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 33, tạm dịch là: Xã Á Lữ từ lâu phụng thờ đền Kinh Dương Vương, vị vua khai sáng văn minh, thánh của người Việt. Chuẩn cho tiếp tục thờ theo nghi lễ quốc khánh.
Đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương trường tồn cùng với thời gian, luôn được nhân dân và Nhà nước bảo vệ, trùng tu tôn tạo, xây dựng lại với đạo lý vấn tổ, tầm tông.
Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta khi ấy tên là Văn Lang.
Lễ hội Kinh Dương Vương luôn được duy trì nhiều nghi lễ và một số hoạt động dân gian. Từ năm 2000, Nhà nước ta tổ chức quốc giỗ 10-3. Con cháu thập phương về dự hội Kinh Dương Vương diễn ra đồng thời với đền Hùng ở Phú Thọ. Vị thánh mở nước luôn được đời đời ngưỡng vọng.
Ngày 20-2-2000, ông Nguyễn Khoa Điềm – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin về dâng hương đền và lăng Kinh Dương Vương, đã ghi: “Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ là thủy tổ của đất nước, mở ra thời đại các vua Hùng làm rạng rỡ non sông đất Việt. Di sản và những nơi thờ cúng của các vị là tài sản quý báu thiêng liêng của dân tộc. Nhà nước ta nhất định sẽ có chính sách trùng tu, tôn tạo ngày càng tốt đẹp hơn.
Mong muốn nhân dân Á Lữ chăm lo giữ gìn di tích thờ phụng Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ để làm nơi giáo dục muôn đời”.
6. CHÙA PHẬT TÍCH
(ĐVO) Tọa lạc trên sườn phía Nam núi núi Lạn Kha (còn gọi là núi Phật Tích) ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, chùa Phật Tích nổi tiếng trong lịch sử với kiến trúc đẹp và cảnh sắc thanh tịnh.
Chùa Phật Tích nổi tiếng trong lịch sử với kiến trúc đẹp và cảnh sắc thanh tịnh.
Chùa đã bị phá hủy phần lớn vào năm 1947. Nhiều hạng mục công trình mới được khôi phục lại trong thời gian gần đây.
Tuy vậy, nhiều dấu tích của ngôi chùa cổ vẫn được lưu giữ, như những bức tường làm bằng đá xếp chồng lên nhau.
10 tượng thú bằng đá cao 1m vẫn được giữ gìn, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn. Chúng được tạo tác trong thế chầu phục để thể hiện sự cảm hóa của Phật pháp.
Tòa Tam bảo là nơi đặt tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh làm từ thời Lý, được coi là báu vật quốc gia của Việt Nam.
Ngay dưới chân tượng là tầng hầm, nơi trưng bày nền móng đại bảo tháp nổi tiếng của thời Lý mới được khai quật. Dựa vào diện tích gần 100m2 của nền móng, các chuyên gia ước tính ngọn tháp cao khoảng 42m..
Sau tòa Tam bảo là vườn tháp với 32 ngôi bảo tháp là nơi cất giữ xá lị của các bậc chư Tổ, chư Tăng đã viên tịch tại chùa. Phần lớn các tòa tháp được dựng vào thế kỷ 17.
Vườn hoa mẫu đơn ở sân chùa, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên đã được phỏng dựng. Theo câu chuyện này, Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên…
Từ sân chùa, có một lối đi xuyên qua rừng thông để lên đỉnh núi.
Trên đỉnh núi đặt Đại Phật tượng A Di Đà, cao 27m, thực hiện theo nguyên mẫu bảo tượng A Di Đà trong chùa. Công trình được khánh thành vào dịp mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội năm 2010 và là pho tượng Phật bằng đá lớn nhất Đông Nam Á tính đến thời điểm hiện tại.
Cách Đại Phật tượng không xa là tòa bảo tháp cao vút.
Phong cảnh vùng đất Kinh Bắc nhìn từ đỉnh núi Lạn Kha.
Vùng quê Kinh Bắc cổ kính và văn hiến có không ít những đền thờ thần mẫu, trong đó đền thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ ven chân núi Kho, nằm bên bờ sông Cầu (thuộc phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh) được coi là một ngôi đền thờ mẫu điển hình trong vùng. Hàng năm, cứ vào dịp đầu và cuối năm, hàng nghìn lượt khách thập phương trong cả nước lại về vãng cảnh, cầu may ở đền Bà Chúa Kho, các hoạt động tín ngưỡng và dịch vụ hành lễ cũng theo đó được mùa làm ăn sôi động.
Hình ảnh Bà Chúa Kho được truyền tụng trong dân gian với sự ngưỡng mộ tôn thờ của dân vùng Kinh Bắc và khách thập phương cả nước. Tương truyền, bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Quả Cảm, Cổ Mễ, Thượng Đồng. Giúp mọi người khai khẩn đất đai nông nghiệp… Sau này bà trở thành một vị hoàng hậu (tương truyền vào thời Lý), giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương, bà đã bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Cảm kích đối với tấm lòng bao dung của bà, nhà vua đã có chiếu phong cho bà là Phúc Thần, nhân dân Cổ Mễ nhớ ơn và lập đền thờ ở vị trí kho lương trước kia. Không ai biết tên thật của Bà là gì, chỉ gọi một cách tôn kính là Bà Chúa Kho. Hàng năm nhân dân địa phương tổ chức ngày tưởng nhớ đến bà rất trang nghiêm trọng thể.
Ngôi đền nhìn về hướng Nam, phía trước là dải đồng trũng, uốn khúc theo triền núi bên dòng sông Cầu, quanh năm nước đầy tạo thành hồ lớn – gọi là hồ Đồng Trầm (hiện đã được quy hoạch xây dựng Khu Du lịch). Đền có kiến trúc của thời Lê, được bố trí theo chiều dọc, chạy từ chân lên sườn núi Kho. Cổng tam quan là công trình mở đầu cho cụm kiến trúc này, các công trình chính của đền bao gồm sân đền, hai dải vũ, toà tiền tế, công đệ nhị và hậu cung, tất cả tạo thành một thể thống nhất, uy nghi. Chị Hồng, quê ở TP Nam Định, người có 7 năm liền đến lễ ở đền Bà Chúa Kho kể: “Mình đi nhiều nơi song thích nhất kiểu kiến trúc ở đây. Mấy năm trước đến đây mình thường bị những người bán lễ, sớ, khấn thuê bám theo, chèo kéo, ép giá nhưng giờ hiện tượng này gần như không còn. Các khu vực bán hàng, dịch vụ hành lễ được quy hoạch rõ ràng, mỗi cửa hàng đều treo bảng giá chi tiết dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cụ trong Ban Quản lý di tích, an ninh trật tự cũng được bảo đảm nên mình thấy rất yên tâm và thoải mái”.
Có thể nói, hiện tượng tín ngưỡng thờ mẫu ở đền Bà Chúa Kho là nét văn hoá dân gian vừa làm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh vốn có của một bộ phận người dân Việt vừa giúp các hộ dân trong vùng phát triển nghề dịch vụ, tăng thêm thu nhập gia đình. Đồng thời, tạo thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tôn tạo các công trình trong cụm di tích ngày càng khang trang, tố hảo. Lại sắp bước vào mùa lễ hội, hy vọng các cơ quan chức năng sớm quan tâm, phối hợp chặt chẽ bảo đảm an ninh trật tự, văn minh quanh khu vực cụm di tích để vượng khí tốt lành của đền Bà Chúa Kho được ban phát đều khắp cho tất cả dân chúng đến vãn cảnh và hành lễ nhằm giữ gìn nét văn hoá lành mạnh trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân.
(Nguồn: chúng tôi
Tìm Hiểu Cách Xưng Hô Trong Văn Bản Và Văn Sớ Cúng Cấp
Ông sơ, bà sơ: Cao tổ phụ, cao tố mẫu.
Chít: Huyền tôn.
Ông cố, bà cố: Tằng tổ phụ, tằng tỉ mẫu.
Chắt: Tằng tôn.
Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu.
Cháu nội: Nội tôn.
Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Nội tồ khảo, nội tổ tỷ.
Cháu xưng là: Nội tôn.
Cháu nối dòng xưng là: Đích tôn: (cháu nội).
Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu: (cũng gọi là ngoại công , ngoại bà).
Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại tồ khảo, ngoại tổ tỷ.
Cháu ngoại: Ngoại tôn.
Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tồ phụ, nhạc tổ mẫu.
Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ tỷ.
Cháu nội rể: Tôn nữ tế.
Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, hiền tỷ.
Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử, cô nữ (cô tử: con trai, cô nữ: con gái).
Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử, ai nữ.
Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ.
Cha ruột: Thân phụ.
Cha ghẻ: Kế phụ.
Cha nuôi: Dưỡng phụ.
Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.
Con trai lớn (con cả thứ hai): Trưởng tử, trưởng nam.
Con gái lớn: Trưởng nữ.
Con kế. Thứ nam, thứ nữ.
Con út (trai): Quý nam, vãn nam. Gái: quý nữ, vãn nữ.
Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu.
Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai: Đích mẫu.
Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.
Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.
Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu.
Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
Bà vú: Nhũ mẫu.
Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc.
Cháu rể: Điệt nữ tế.
Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ.
Vợ của chú : Thiếm, Thẩm.
Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt.
Cha chồng: Chương phụ.
Dâu lớn: Trưởng tức.
Dâu thứ: Thứ tức.
Dâu út: Quý tức.
Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Ngoại khảo.
Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Ngoại tỷ.
Rể: Tế.
Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô.
Ta tự xưng là: Nội điệt.
Chồng của cô: Dượng: Cô trượng, tôn trượng.
Chồng của dì: Dượng: Di trượng, biểu trượng.
Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.
Còn ta tự xưng là: Sanh tôn.
Cậu vợ: Cựu nhạc.
Cháu rể: Sanh tế.
Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.
Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.
Vợ lớn: Chánh thất.
Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất.
Anh ruột: Bào huynh.
Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ.
Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội
Chị ruột: Bào tỷ.
Anh rể: Tỷ trượng.
Em rể: Muội trượng.
Anh rể: Tỷ phu.
Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ.
Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.
Chị chồng: Đại cô.
Em chồng: Tiểu cô.
Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.
Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.
Chị vợ: Đại di.
Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội.
Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử.
Con gái đã có chồng: Giá nữ.
Con gái chưa có chồng: Sương nữ.
Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.
Tớ trai: Nghĩa bộc.
Tớ gái: Nghĩa nô.
Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.
Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu.
Cha, mẹ chết đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ.
Mới chết: Tử.
Đã chôn: Vong.
Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, đường thúc, đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn.
Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt.
Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, tổ túc, tổ cô.
Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn
sưu tầm
Phan Quốc Tuấn @ 20:24 28/05/2011 Số lượt xem: 19069
Tìm Hiểu Bài Cúng Đầu Năm Ngoài Sân Không Thể Bỏ Qua
Ở Việt Nam, yếu tố tâm linh không thể thiếu trong đời sống. Mỗi người đều xem trọng nét đẹp phong tục cổ truyền với hy vọng mang lại điều may mắn. Trong đó, bài cúng đầu năm ngoài sân trở thành nghi lễ chính vào dịp tết nguyên đán.
Bài cúng đầu năm ngoài sân là gì?
Chúng ta còn biết tên gọi khác là lễ hạ cây nêu. Người dân kết thúc mọi hoạt động vui chơi ngày Tết quay trở lại công việc làm ăn bình thường. Theo phong tục truyền thống, từ 23 tháng chạp đến 30 tết thì gia đình dựng cây nêu. Trên cành cây được treo trang trí vòng tròn nhỏ hay thứ gì đó theo phong tục địa phương.
Mục đích tiễn những điều không may mắn của năm cũ và chào đón thứ tốt đẹp đến với gia đình, cộng đồng. Đồng thời, chúng ta trừ ma quỷ tới quấy phá cuộc sống và ăn Tết thật bình an. Cúng đầu năm đón thần linh về với gia đình và hạ cây nêu ngày Tết đi. Thời gian phù hợp thực hiện từ 5-7 tháng Giêng.
Nhân tiện làm lễ cúng ngoài trời, các gia đình kiêm luôn lễ cúng thần linh, thổ công, thần tài và tổ tiên. Nó cũng được xem là lễ cầu phúc đầu năm cho cả gia đình.
Chuẩn bị lễ vật cúng đầu năm ngoài sân
Trước hết, chúng ta cần chuẩn bị đầy đủ 2 lễ sau:
Lễ 1: Mâm ngũ quả
Tùy từng vùng miền để chuẩn bị mâm ngũ quả khác nhau. Vậy nên, bạn sinh sống ở đâu thì lựa chọn những loại quả theo phong tục ở đó. Ngoài ra, các đồ lễ cần có: hương, bình hoa, giấy tiền vàng mã, trầu cau, rượu, trà, nến, bánh chưng.
Lễ 2: Mâm cỗ mặn
Theo phong tục cổ truyền, mâm cỗ thường có 6 món: 2 mặn, 2 nhạt, 1 canh và 1 xôi. Thực tế, mâm cỗ mặn không quy củ bắt buộc theo 1 thực đơn sẵn. Tuỳ thuộc điều kiện gia đình để có sự chuẩn bị phù hợp nhất.
Những lưu ý khi làm lễ cúng đầu năm
Đến đây, nhiều người lo lắng khâu chuẩn bị lễ vật dâng cúng vì sợ thiếu sót. Điều này ảnh hưởng đến sự tác động suôn sẻ. Vậy nên, bạn cần lưu ý một số điểm sau:
Bạn tìm hiểu và lên danh sách các lễ vật cần thiết ra giấy.
Người chuẩn bị phải có tâm lý ổn định, không nên lo lắng. Quan trọng nhất nằm ở lòng thành thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.
TViệc chọn vị trí đặt mâm rất quan trọng. Bạn nên nhờ một người hiểu biết lĩnh vực này hướng dẫn cụ thể sẽ tránh được những sai sót.
Đọc lời khấn chính là cách để giao tiếp và bày tỏ lòng thành với các vị bề trên. Người chủ trì cần thành tâm thực hiện đúng quy trình để mang lại hiệu quả cao.
Nội dung Bài cúng đầu năm ngoài sân
Nam mô Trời Thượng quyền vũ trụ (1 vái)! – Nam mô Ngọc Hoàng Thượng Đế (1 vái)!
– Con xin kính lạy Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế và các Thiên quan Nhà Trời (1 vái). Con là: ……………………, Ở tại: ………………………….. Con xin kính cáo Trời và Ngọ Hoàng Thượng Đế:
Bây giờ đã bước sang năm mới, gia đình chúng con có chút lễ mọn đặt trên hương án kính dâng Trời Thượng quyền, các Ngọ Hoàng Thượng Đế, cùng các Thiên quan Trời và Nhà Trời. Kính mong Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng các Thên quan vui lòng thụ hưởng lễ vật và phù hộ độ trì gia đình chúng con. Xin Trời, Ngọ Hoàng Thượng Đế và các Thiên quan chỉ giáo cho chúng con đường đi nước bước để mọi thành viên trong gia đình năm nay hưởng mọi may mắn: khỏe mạnh, làm ăn tấn tới, hạnh phúc gia đình được đảm bảo. Chúng con nguyện một lòng tin tưởng vào Trời Thượng quyền và Ngọ Hoàng Thượng Đế, đặng phấn đấu hết mình đóng vào việc xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ ở Việt Nam. Con xin đội ơn. Xin kính lạy (3 vái).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tìm Hiểu Nguyên Phi Ỷ Lan Qua Tài Liệu Mộc Bản Triều Nguyễn trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!