Đề Xuất 3/2023 # Tín Ngưỡng Thờ Đức Thánh Trần Trong Tâm Thức Người Việt. # Top 4 Like | Herodota.com

Đề Xuất 3/2023 # Tín Ngưỡng Thờ Đức Thánh Trần Trong Tâm Thức Người Việt. # Top 4 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tín Ngưỡng Thờ Đức Thánh Trần Trong Tâm Thức Người Việt. mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trang chủ

Tin tức – Sự kiện

Văn hóa – Xã hội

Lượt xem: 19029

Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần trong tâm thức người Việt.

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử đấu tranh sinh tồn, dân tộc Việt Nam đã sinh ra rất nhiều nhà chính trị, quân sự, văn hóa … lỗi lạc có công với dân, với nước. Tên tuổi của họ gắn liền với những trang sử hào hùng của đất nước như: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi, Quang Trung, … Trong số đó, Trần Hưng Đạo nổi lên là nhân vật tài hoa đức độ, một nhân cách lớn, một thiên tài quân sự – người mà tên tuổi đã gắn liền với chiến công ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên – Mông (thế kỷ 13-14), đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 và ông đã được nhân dân “thánh hóa” với cách gọi đầy tôn kính: “Đức Thánh Trần”, cũng chỉ có ông chứ không phải ai khác được mọi thế hệ xưng tụng làm “Cha”.

Đức Thánh Trần tên thật là Trần Quốc Tuấn, sinh ngày 10 tháng Chạp năm 1228 (hay năm 1230 hoặc 1232?) tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300), ông là con trai thứ của An Sinh vương Trần Liễu, anh trai vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh). Về gốc tích ra đời của ông, song song với dòng chính sử chép về Trần Quốc Tuấn là một dòng dã sử truyền miệng đầy chất huyền thoại kể về Đức Thánh Trần do Thanh tiên đồng tử trên Thiên Đình phụng lệnh Ngọc Hoàng đầu thai xuống hạ giới, giáng sinh vào nhà Thân vương, mang theo kiếm phi thiên thần và tam bảo của Lão Tử, ngũ tài của Thái Công, sau làm một vị tướng đệ nhất Trung Hưng, đến khi tuổi già được hóa làm danh thần để cai trị việc nhân gian, con cháu đời đời được ghi vào sổ phúc đức… ngay sau đó Thân Vương phu nhân sinh ra Vương, trong lúc sinh Vương gió thoảng hương đưa, sinh hào quang khắp nhà, rạng sáng hôm sau có một vị đạo sĩ đến cửa xin yết kiến. An Sinh Vương nói “Tiên sinh từ xa tới đây, chẳng hay có việc gì quý báu chăng? Người đạo sĩ trả lời “Đêm qua tôi thấy một ngôi sao sa tới đây, cho nên hôm nay đến xin yết kiến và báo cho Thân Vương biết”. An Sinh Vương   người nhà đem công tử ra để đạo sĩ coi. Coi xong đạo sĩ quỳ xuống chắp tay vái mừng Thân Vương mà nói “Tốt thay, công tử quý hóa này mai đây ắt có những tài kinh bang tế thế, giúp rập quốc gia”… Vương mới đầy tuổi đã biết nói, sáu tuổi đã bày trận đồ bát quái, biết đọc thơ ngũ ngôn. Lớn lên càng thông minh đĩnh ngộ, tư bẩm sáng suốt lại được An Sinh Vương Trần Liễu cho mời các danh sư trong nước về dạy văn võ. Vì vậy Quốc Tuấn nổi tiếng là người học rộng hiểu nhiều đặc biệt là binh thư, binh pháp, cưỡi ngựa, bắn cung…

Vào năm Thiên Bảo thứ 5 đời vua Trần Nhân Tông (1283) ngài được tấn phong tước Quốc Công, giữ chức Tiết chế thống lĩnh binh quyền. Với tài thao lược, trí dũng song toàn, ngài đã lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến đấu và giành thắng lợi trước quân Nguyên Mông – đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, giữ vững chủ quyền của quốc gia. Ngài cũng là tác giả nổi tiếng của thiên hùng văn Hịch Tướng sĩ và hai cuốn binh thư là “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp tông bí truyền thư”. Sau khi mất, Ngài được triều đình phong tặng danh hiệu: “Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương”.

Ghi nhận công lao to lớn của Ngài, ngày 18/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 22C NV/CC, quy định những ngày Tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo, trong đó có ngày kỷ niệm lịch sử Trần Hưng Đạo là ngày 20/8 âm lịch. Từ đó đến nay, ngày 20/8 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày Lễ quan trọng của dân tộc ta.

Tháng 2 năm 1984, Hội Hoàng gia nước Anh đã tổ chức một cuộc họp với sự có mặt của 478 nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự của nhiều nước trên thế giới. Hội nghị đã đề cử danh sách 98 tướng, soái xuất sắc từ thời cổ đại cho tới ngày nay rồi tiến hành bỏ phiếu lựa chọn 10 vị tướng, soái kiệt xuất để in trong cuốn Bách khoa toàn thư nước Anh. Trong 10 vị tướng, soái được lựa chọn có hai người con ưu tú của Việt Nam, đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong thời kỳ Trung đại với số phiếu  478/478 đạt tỷ lệ 100% (Người đã đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới – quân Nguyên Mông – ghi chú thêm trong phiếu bầu) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ hiện đại với số phiếu  478/478 đạt tỷ lệ 100%.

Có thể nói Trần Hưng Đạo mất đi để sống mãi như một nhân vật lịch sử. Nhưng đối với nhân dân Ngài không hề mất: sinh làm tướng giúp dân giúp nước, chết làm thần giúp nước giúp dân.

Việc Ngài được “thánh hóa” là hiện tượng hợp với tâm thức và ước nguyện của người Việt: là thần thánh hóa người có công với dân, với nước, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông bờ cõi, được muôn đời ngợi ca bởi tấm gương trung hiếu, khí phách kiên cường, tài năng quân sự và tấm lòng tín nghĩa. Nhân dân không gọi trực tiếp tên của Ngài mà gọi là Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, là Cha. Việc thờ phụng Đức Thánh Trần hiện nay đã trở thành một hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến của nước ta: Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần.

Cũng như các tín ngưỡng dân gian khác, Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần là một hình thái biểu thị đức tin, niềm tin của nhân dân, nội dung nổi bật của Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần là truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

“Tháng tám giỗ cha – tháng ba giỗ mẹ” đã trở thành một tập quán tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong số các vị Thánh bất tử, chỉ duy nhất Đức Thánh Trần – Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn  là nhân vật lịch sử có thật, được cho là linh thiêng bậc nhất. Có thể hiểu điều này giống như lòng ngưỡng mộ và tôn sùng mà nhân dân dành cho vị Anh hùng gắn với những chiến công hiển hách thế kỷ XIII.

Đền Thiên Trường – Phường Lộc Vượng – TPNĐ

Trải qua hơn 700 năm, các truyền thuyết và nghi lễ, lễ hội thờ phụng Đức Thánh Trần đã hình thành và phát triển khắp nơi trên đất nước ta. Có nhiều hình thức tôn vinh mang tính phổ biến đã tạo nên sức sống trường tồn, bền bỉ và có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với con người.

Xung quanh Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần không chỉ có các di sản văn hóa hiện hữu mà là cả một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đa dạng, đa sắc màu, thấm đẫm giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian cổ truyền, đó là kho tàng truyền thuyết, thần tích, huyền thoại về các thần linh, là các hình thức diễn xướng âm nhạc, ca hát, các hình thức trang trí, kiến trúc. Các cuộc tế lễ, dâng hương tưởng niệm Trần Hưng Đạo được tiến hành theo kịch bản được xây dựng công phu và được cử hành nghiêm trang, trọng thể với các nghi lễ vừa linh thiêng, kính cẩn vừa huyền bí.

Nhìn chung, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có tục thờ Đức Thánh Trần ở các địa điểm: đền, điện, phủ, miếu, đình, chùa theo nhiều hình thức như: thờ chính, thờ vọng hoặc rước chân nhang. Ở phía Bắc, nơi thờ nhiều nhất là tỉnh Nam Định, kế đến là Thái Bình, Hà Nội… ở các tỉnh phía Nam tuy ít hơn nhưng gần như tỉnh, thành phố nào cũng có.

Trong tâm thức của nhân dân Việt Nam đến nay, vẫn coi ngày giỗ Đức Thánh Trần là một ngày lễ trọng – ngày hội. Từ Nam chí Bắc, dân chúng nô nức đi chảy hội đền Trần.

Đoàn rước kiệu từ đình Tức Mặc thờ thành hoàng làng lên đền Trần chầu đức Vua, đức Thánh Trần

Tại di tích quốc gia đặc biệt đền Trần, chùa Phổ Minh, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, hàng năm cứ vào dịp tháng Tám âm lịch, chính quyền và nhân dân địa phương lại long trọng tổ chức kỷ niệm ngày kỵ của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với nhiều nghi lễ tín ngưỡng như rước kiệu, tế lễ, hát văn và nhiều trò chơi dân gian khác như: múa rồng, múa lân, biểu diễn võ thuật, đấu vật, chơi cờ người, chọi gà…

Nghi thức tế nữ quan tại đền Cố Trạch – Phường Lộc Vượng – TPNĐ

Đức Thánh Trần là biểu tượng bất diệt của bản trường ca về chủ nghĩa yêu nước, yêu dân tộc; là hình mẫu về sự hy sinh, cống hiến vì nhân dân, vì đất nước. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần chính là tuân thủ quy luật “sinh vi tướng, tử vi thần” trong văn hóa Việt, có giá trị to lớn trong giáo dục nhân cách và đạo lý làm người; giáo dục, vun bồi lòng yêu quê hương, yêu giống nòi, bài học về ý thức tự lực tự cường dân tộc, về việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

Trần Hưng Đạo, trước khi từ lịch sử bước sừng sững vào tâm thức tín ngưỡng dân gian, đã để lại không chỉ những chiến công lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông mà cao hơn, là để lại một di chúc chính trị – quân sự có giá trị vượt qua mọi thời đại lịch sử, vượt qua không gian và thời gian: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là kế thượng sách để giữ nước”. Khoan thư sức dân không đơn giản là một kế sách mà là triết lý tồn tại cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là chân lý của mọi thời đại. Đó là tư tưởng thân dân, đặt con người vào vị trí cao nhất trong nghệ thuật trị quốc. Tư tưởng chủ đạo ấy khai thông mạch nguồn dân tộc, làm thăng hoa sức mạnh con người Việt Nam, tạo nên khí phách Việt Nam. 

Đất nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, trong tâm thức người dân đất Việt, Đức Thánh Trần và các vị tiền bối của dân tộc ta đã, đang và sẽ mãi là tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức, bản lĩnh, trí tuệ, nghị lực và tài năng cho các thế hệ sau này của đất nước noi theo cùng thi đua sống, lao động và học tập góp phần nâng cao vị thế, tầm vóc và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. 

Sưu tầm, biên tập

Vũ Thị Tuyết Mai

BQL khu DTLSVH Đền Trần – Chùa Tháp TP Nam Định

1. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Thời Trần và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Định – Sở VHTTNĐ 2004.

2. DTLSVH đền Trần, chùa Tháp tỉnh Nam Định – NXBVHDT 2011

Tweet

Tín Ngưỡng Thờ Cúng Tổ Tiên Của Người Việt

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Bài tập nhóm Đại cương văn hóa Việt Nam 8 điểm.

Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong tục đẹp, giàu bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang trong nó những giá trị văn hoá nhân bản. Cùng với thờ cúng tổ tiên thì thờ “thành hoàng làng” và thờ “vua hùng” cũng là những phong tục lâu đời của người Việt nam ta. Trong khuân khổ bài viết này, nhóm chúng em sẽ làm rõ những phong tục này qua đề tài:” Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt? Ý nghĩa của việc thờ “thành hoàng làng” và thờ “vua hùng”?

Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo

Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v… là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị “Thành hoàng làng” các “Nghệ tổ”. Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành “Cha” được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. “Tháng 8 giỗ cha” ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả “Thành hoàng” của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm “thành hoàng”. Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là “Mẹ Âu Cơ”, còn là “Vua Hùng”, là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.

Lễ Nghi Thờ Cúng Trong Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Ở Việt Nam

Trước hết, chúng ta cần phân biệt các khái niệm : Chùa, đền, đình, miếu, nhà Thánh, nhà thờ…

Chùa là nơi thờ Phật. Đền là nơi thờ Thánh ( gồm 2 giòng chính, đền thờ Thánh Mẫu và đền thờ Đức Thánh Trần). Miếu là nơi thờ Thành Hoàng, Thổ Công. Nhà Thánh là nơi thờ Khổng Tử. Nhà thờ là nơi thờ Thánh tổ của các đạo giáo, tổ phụ, gia tiên của các giòng họ. Đình là nơi để họp làng không phải chỗ thờ cúng, nhưng do điều kiện kinh tế của các địa phương, có nơi cũng đưa việc thờ cúng vào đình làng. Đó là trường hợp ngoại lệ.

Do mục đích khác nhau nên lễ nghi thờ cúng ở đền, chùa, miếu, nhà Thánh, nhà thờ…cũng khác nhau.

Ở chùa và ở nhà thờ các đạo giáo nghi thức chủ yếu là đọc kinh, hành lễ, ban phước. Đền là nơi thờ cúng các vị có công với dân, với nước, được nhân dân và các triều đại ban sắc, phong Thánh. Đó là những vị Thánh của dân tộc Việt Nam, ngự trị trong tâm linh, tâm hồn của người Việt, được người Việt từ thế hệ này qua thế hệ khác ngưỡng mộ, tôn thờ.

Nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu được gọi là hầu.

Hầu có 2 dạng : hầu bóng (còn gọi là hầu mát) và hầu đồng.

Hầu bóng là nghi thức thờ cúng đơn thuần, người hầu thực hiện các nghi lễ theo trình tự bài bản từ xưa để lại. Hầu đồng, cũng diễn ra theo các trình tự như hầu mát, nhưng được quan niệm là người hầu đã có phần hồn của các vị Thánh giáng vào, nhập.vào.

(Bài viết này chỉ viết về các thủ tục, lễ nghi, nghi thức hầu mát ở các đền thờ Thánh Mẫu, chưa đề cập đến hầu đồng vì đấy là một vấn đề phức tạp không dễ trình bày trong một bài báo ngắn).

Như trên đã nói, đền thờ Thánh ở Việt Nam chia làm 2 hệ thống : Một hệ đền thờ Thánh Mẫu, và một hệ đền thờ Hưng Đạo Đại Vương và các tướng lĩnh, gia thân của nhà Trần. Hai hệ đền thờ ấy, người Việt còn gọi một cách thân mật giản dị là đền thờ Cha và đền thờ Mẹ. Trong các đền thờ Thánh Mẫu thì đứng đầu là Mẫu Đệ Nhất (công chúa Liễu Hạnh). Tiếp đến là Mẫu Đệ Nhị ( còn gọi là Mẫu Thượng Ngàn), Mẫu Đệ Tam ( còn gọi là Mẫu Thoải Phủ)… tiếp đến các Chầu ( tức là các Mẫu thuộc các dân tộc thiểu số anh em), từ Chầu Bà đến Chầu Bé, 12 Chầu. Sau 12 Chầu là 12 quan lớn cũng gọi théo thứ tự Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam…Sau 12 Quan Lớn là 12 ông Hoàng, gọi théo thứ tự Hoàng Nhất, Hoàng Đôi, Hoàng Bảy, Hoàng Mười…Các Quan Lớn, các Ông Hoàng đều có thần phả, một số vị còn có gốc tích nhân thần, quê quán, sắc phong của các triều đại. Ví dụ, ông Hoàng Bảy có đền thờ riêng ở Lào Cai, ông Hoàng Mười ở Nghệ An…v.v.. Sau các ông Hoàng là các Cô, các Cậu. Các Cô, các Cậu cũng là những nhân vật lịch sử, một số vị còn có đền thờ riêng ở các địa phương trong nước. Ví dụ : Cô Bơ có đền thờ ở Thanh Hóa, Cậu Út có đền thờ ở Cửa Sót, Hà Tịnh…

Như trên đã nói, nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu ở Việt Nam được gọi là hầu. Chữ hầu này cũng có nghĩa như chữ hầu dùng trong giao tiếp thường ngày, ví như khi ta nói, hầu ông, hầu bà, hầu cha, hầu mẹ, hầu vợ, hầu chồng, hầu quan… chẳng hạn. Trong nghi thức thờ cúng ở các đền thờ Thánh Mẫu, chữ hầu này có nghĩa là hầu Mẫu, hầu Thánh. Khi nói đến chữ Hầu là ta nói đến nghi thức thờ cúng ở trong các đền thờ Thánh Mẫu. Trong đền thờ Thánh Mẫu , thay vì việc đọc văn thì người hầu Thánh sẽ hát văn (còn gọi là hát chầu văn), Thay vì việc cúng bái, người hầu Thánh lại biểu thị bằng các động tác múa – Những động tác múa được cách điệu từ đời sống lao động thường ngày như múa chèo thuyền, múa đi ngựa, múa gươm, múa đao, múa chăn tằm dệt vải, múa ” lên rừng hái lộc tìm hoa”…v.v…

Như vậy, có thể nói, nội dung của nghi thức hầu thánh lại chính là hát và múa. Đó là những làn hát, những điệu múa dân gian đã được thời gian thử thách, chọn lọc và đã tồn tại lâu dài, bền vững nghìn năm trong lịch sử dân tộc, tiếp nối từ đời này qua đời khác. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, các làn hát, các điệu múa ấy đã góp phần quan trọng để làm nên các giá trị trong tổng thể tinh hoa văn hóa cổ truyền của dân tộc. Nghi thức thờ Mẫu là nghi thức thờ cúng rất độc đáo, rất đặc sắc của văn hóa Việt và cũng chỉ người Việt mới có. Chính vì lẽ đó mà năm nay, Ủy ban văn hóa Unesco của Liên hiệp quốc đã công nhận tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Tuy nhiên, giá trị văn hóa của các nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu không chỉ có thế. Nghi thức thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tập hợp bao gồm nhiều giá trị văn hóa tổng hợp. Chẳng hạn, văn hóa bài trí, văn hóa phục trang, văn hóa ẩm thực …v.v..

Về văn hóa ẩm thực trong các cỗ cúng ở các đền thờ, tôi nói thêm đôi nét về “mâm sơn trang” trong lễ nghi thờ Mẫu.

Mâm sơn trang là để cúng Mẫu Thượng Ngàn và 12 Bà Mụ. Trong lễ nghi thờ Mẫu, mâm sơn trang phải bày đủ sản vật tiêu biểu của rừng và biển : Cơm lam, chè và, măng giang, bánh đa, bánh đúc, bún lá, xôi cẩm, cá luộc, trứng luộc, cua bể, cua đồng, ốc luộc, tôm luộc, thịt heo nướng, muối vừng, muối lạc, tương ớt, nước chẻo… Người hầu Mẫu, dâng mâm sơn trang cúng Mẫu, nói chung đều phải cố gắng sắm đủ lễ vật nói trên. Thoảng hoặc, một đôi người vì lý do nào đó, có lúc làm thiếu đi một vài món trong các món kể trên thì cũng không sao. Theo quy định từ xưa, khi cúng xong, người hầu Thánh phải đem mâm sơn trang ra để mời khách thập phương đến dự lễ ăn uống. Người xưa quan niệm rằng, mọi lễ vật thờ Thánh khi cúng xong phải phát hết cho khách thập phương ( gọi là tản lộc). Ai tham lam giữ lại cho mình là không được hưởng phúc lộc Thánh ban. Về trang phục, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trang phục của người Việt từ thời thượng cổ vẫn được bảo tồn, tái hiện gần như nguyên vẹn trong các giá hầu. Mỗi giá hầu có một bộ trang phục riêng. Mỗi bộ trang phục riêng lại kéo theo một cách ăn mặc riêng. Cái khăn mỏ quạ khác cái khăn piêu nên cách vấn khăn của các Chầu, các Mẫu cũng rất khác nhau. Các Mẫu đi giày, đi hia. Các Chầu quấn chân bằng xà cạp. Cô Bơ mặc áo trắng, tóc bỏ đuôi gà. Cô Cam Đường mặc áo tứ thân màu nâu tím, chit khăn mỏ quạ, gánh vải đi bán. Nói tóm lại, cân đai, giày mũ, khuyên vàng, vòng bạc, tram cài, lược dắt, mỗi người mỗi khác. Trong đền thờ Thánh Mẫu, có những người chuyên nghề phục trang cho các giá đồng. Họ rất thông hiểu về văn hóa lễ nghi trong trang phục truyền thống. Có những “bản hội” đến đền hầu liệt giá. Chúng ta có thể đếm được 43 giá đồng với 43 cách ăn mặc khác nhau. Thông thường hiện nay, người hầu Thánh chỉ hầu 12 giá tùy vào “căn kiếp” của người hầu mà chọn lọc các giá hầu. Trong một cuộc hầu Thánh, người hát văn hát thỉnh, hát mời cả 43 giá đồng nhưng người hầu tùy ý lựa chọn. Nếu giá nào không hầu thì người hầu đưa tay lên đầu nắm lại, ra hiêu cho người hát văn biết để hát câu ” xe loan Thánh giá hồi cung”. Ngoài ra, hai người chuyên hầu trà, rượu, thuốc, nước cũng phải học cách rót rượu, dâng trà, cầm hương, che quạt một cách chính tắc, có bài bản, tuân thủ lễ nghi phong tục cổ truyền biểu hiện trong từng động tác, từng cử chỉ mang tính văn hóa cao. Như đã nói, Lễ nghi thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu có nội dung chủ yếu biểu hiện ở khâu hành lễ. Vào buổi lễ, trước hết, người chủ tế đọc ” kinh thỉnh”, ” kinh báo cáo”. ” Kinh” này nêu rõ lý do thờ cúng, ai thờ cúng, thờ cúng những ai, với mục đích gì trong buổi hành lễ này? Nghi thức này được làm rất trang trọng. Có chiêng trống, có thông xướng, có chủ tế, phụ tế. Có hát thỉnh, hát mời. Lễ này thường kéo dài 3 tiếng đồng hồ. Có nơi nghi thức đó được làm vào ban đêm, để đèn nến suốt sáng, rạng ngày hôm sau mới vào cuộc hầu. Vào cuộc hầu, người hầu xưng tên tuổi danh tính, xin Thánh cho hầu bằng cách “khất âm dương”. Thường thì người hầu cứ xin mãi cho đến khi được ” Thánh chấp thuận”, không thấy ai bị bỏ dở cuộc hầu. Ở đền thờ Thánh Mẫu, người hầu Thánh không làm việc “cúng bái” như việc cúng đơm trong gia tiên hay nhà thờ họ. Người hầu hành lễ theo cách “lạy bước”. Đầu tiên, người hầu quỳ xuống, cấm 5 cây hương, vái 5 vái ở chính điện, 1 vái bên tả, 1 vái bên hữu. Sau đó tiếp tục 5 lễ. Cụ thể : Người hầu đứng lên, lùi chân trái về phía sau, lùi chân phải ngang chân trái để định vị. Sau đó đưa chân trái tiến lên, đưa chân phải định vị, vái 5 vái ở chính điện và 1 vái hai bên tả, 1 vái bên hữu. Tiếp tục tiến lên, lùi lại như vậy 5 lần, gọi là 5 lễ. Sauk hi cử hành 5 lễ, người hầu quỳ xuống, người phục vụ trùm tấm khăn đỏ lên đầu. Bạn nhác và những người hát văn bắt đầu hát bài hát văn giá Mẫu. Người hầu lần lượt hầu các giá Mẫu, giá các Quan lớn, các ông Hoàng, các Cô, các Cậu, các Chầu…Những người phục vụ quỳ hai bên tả hữu của người hầu để thay đổi trang phục, dâng trà nước, nhắc nhở người hầu thực hiện các động tác múa cho phù hợp với các giá hầu. Sau mỗi giá, người phục vụ ( còn gọi là hầu dâng) nhắc nhở người hầu ” phát lộc” cho cung văn và khách thập phương đến dự lễ. Người hầu Thánh thực hiện các động tác múa cổ truyền được quy định cho từng giá đồng. Tiếng nhạc ngựa, tiếng gươm khua, tiếng mái chèo quẫy nước vô cùng sôi động. Đặc biệt hơn cả là điệu múa ” lên rừng hái lộc tìm hoa” của Chầu Bà và Chầu Bé được tất cả mọi người đến dự lễ cùng vỗ tay và hát tập thể. Ánh sáng từ các cây đăng trên tay của Chầu soi sáng tất cả mọi gương mặt để ban cho họ một sức khỏe mới, một tinh thần mới, từ uy linh của các Thánh. Hầu như ai đến dự lễ cũng cảm thấy như bản thân mình vừa được các Mẫu, các Thánh truyền cho ánh sáng của sự lạc quan, yêu đời, rất lạ lung và mới mẻ.

Lễ nghi thờ Mẫu là lễ nghi của người Việt Nam thờ Thánh Việt Nam theo tín ngưỡng Việt Nam. Lễ nghi và tín ngưỡng này có từ thời Mẫu hệ, được lưu truyền, kế thừa và phát triển trong tiến trình lịch sử lâu dài của dân tộc.

Cũng theo tiến trình lịch sử, Thánh Việt Nam ngày một nhiều thêm, đền thờ Thánh cũng tăng dần theo lòng tôn kính của nhân dân với các anh hùng dân tộc, người có công với dân, với nước. Đền thờ Thánh Mẫu ở Việt Nam là bảo tàng văn hóa sống động, đa chiều, đa dạng như trên đã nói. Nghi thức thờ cúng ở trong đền thờ Thánh Mẫu là hầu. Hầu là nghi thức thờ cúng rất đặc sắc, rất có văn hóa, rất đáng quan tâm, nghiên cứu, kế thừa, phát triển. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ phong tục cổ truyền tốt đẹp của dân tộc, đền chùa còn có những đóng góp rất quan trọng trong việc hấp dẫn khách tham quan du lịch. Việt Nam muốn là ” điểm đến của thiên niên kỷ mới” càng cần phải nghiên cứu, kế thừa lễ nghi thờ cúng trong các đền Thánh Mẫu nhất là khi tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu của chúng ta đã được cả thế giới công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Có một số người chỉ đại khái nghe đến chữ hầu liền phán ngay là mê tín dị đoan, trong khi chính bản thân mình chưa hề để tâm nghiên cứu.

Văn hóa lễ nghi, văn hóa tâm linh, là những khái niệm khó, đòi hỏi mỗi người phải có “con mắt xanh” để nhìn nhận, để trân trọng và nâng niu gìn giữ những di sản, những vốn văn hóa quý hiếm trong đời sống tâm linh, tâm hồn của dân tộc. Hiện nay, théo ước tính, có người nói là Việt Nam có gần 7000 vị Thánh. Thánh phả Việt Nam chưa được nghiên cứu, chưa có phả hệ rõ ràng. Việt Nam trên thực tế vẫn có hàng ngàn đền thờ Thánh. Lễ nghi thờ cúng trong các đền thờ cũng còn nhiều tùy tiện. Mong các nhà văn hóa, các nhà nghiên cứu lưu tâm hơn nữa đến các vấn đề này. Lễ nghi thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của chúng ta cần được tiếp tục nghiên cứu để phát huy giá trị của nó, cao hơn, đẹp hơn, hữu ích hơn, xứng tầm với một di sản văn hóa độc đáo và quý hiếm đã được cả nhân loại vinh danh, công nhận.

Địa chỉ tác giả : Thạch Quỳ, hội văn nghệ Nghệ An, 6 Đào Tấn, TP Vinh, Nghệ An.

Thiêng Liêng, Ngày Giỗ Đức Thánh Trần

Thời gian: 8h30 – 12h và 13h – 17h30 thứ 2 đến thứ 6, thứ 7 từ 8h30 – 12h, ngoài giờ hành chính bạn có thể email tới support@thongtingia.com

Chúng tôi không bán hàng trực tiếp. Để liên hệ mua hàng, vui lòng xem thông tin người bán tại trang chi tiết sản phẩm. Xin cảm ơn!

hoidongtrantoc

Thiêng liêng, ngày giỗ Đức thánh Trần – Giỗ Đức thánh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn lần thứ 712 năm tại đền Trần Sơn Hải – Tp Hà Nội

THIÊNG LIÊNG, NGÀY GIỖ ĐỨC THÁNH TRẦN

Ngày 20 tháng Tám năm Nhâm Thìn (ngày 5-10-2012)

tại đền Trần Sơn Hải – Tp Hà Nội

Đã hơn 700 năm, Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đã đi vào tâm thức người dân Việt với định danh “Tháng Tám giỗ Cha”. Trên mọi miền Tổ quốc, từ Nam ra Bắc, người người đều nhớ và náo nức mong đợi ngày giỗ Cha. Năm nay, Hội đồng Trần tộc Việt Nam tổ chức Lễ giỗ năm thứ 712 Đức Thánh Trần tại đền Trần Sơn Hải, Hà Nội, nơi có thiên duyên thờ Đức Thánh Trần và đã được Nhà nước cấp Bằng Di tích lịch sử văn hóa. Đền Trần Sơn Hải nằm ngay sát Bến Đông Bộ Đầu – bến sông đã làm giặc phương Bắc khiếp vía bởi cuộc phản công của quân dân Nhà Trần, quét sạch hàng vạn giặc xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lấn thứ nhất. Bến Đông Bộ Đầu trường tồn cùng lịch sử, minh chứng cho sức mạnh của dân tộc Việt bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Buổi Lễ giỗ tại đền Trần Sơn Hải mở đầu bằng cuộc rước múa lân sư do UBND phường Chương Dương điều hành. Đoàn rước tưng bừng với long đình và kiệu, trống rong cờ mở, sắc mầu rực rỡ hòa cùng lòng người rộn ràng phấn khích hướng tới khu vực đền. Ở đây, một sân khấu lớn với bức pa-nô rộng 20 mét vuông thể hiện Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương oai phong lẫm liệt ra lệnh toàn quân “sát Thát”. Bức pa-nô gây rung động lòng người, và liên tưởng tới cũng tại nơi đây, Quốc công đã đọc “Hịch tướng sĩ” để khích lệ lòng yêu nước của toàn dân và toàn quân.

Lễ giỗ tiến hành trang trọng. Tới dự, có ông Hoàng Công Khôi, Bí thư quận ủy và ông Vũ Văn Viện, Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm; các vị trong Ban Quản lí di tích và danh thắng Hà Nội; các vị Bí thư đảng ủy và Chủ tịch UBND phường Chương Dương; các vị Thường trực Hội đồng Trần tộc Việt Nam; cùng nhân dân, Phật tử và đông đảo con cháu họ Trần một số tỉnh về dự, như đoàn họ Trần Nam Định, đoàn Thái Bình, đoàn Thường Tín, đoàn Phú Thọ, đoàn Sơn Tây, đoàn thành phố Cẩm Phả, …. Tối hôm trước ngày giỗ, ông Phạm Quang Nghị – Bí thư Thành ủy và ông Nguyễn Thịnh Thành – Chánh văn phòng UBND thành phố Hà Nội đã đến thắp hương sùng kính Đức Thánh Trần. Tại lễ giỗ, ông Phạm Chi Linh, Phó chủ tịch UBND phường Chương Dương, Trưởng ban quản lí di tích, đọc diễn văn khai mạc Lễ giỗ dâng hương Đức Thánh Trần. Ông Trần Anh Vinh, Phó chủ tịch thường trực Hôi đồng Trần tộc Viêt Nam lên phát biểu. Lời khai mạc và phát biểu đã khơi dậy một nhà Trần với hào khí Đông A, qui tụ vua tôi tướng lĩnh, qui tụ sức mạnh quân dân, ba lần toàn thắng đế quốc Nguyên Mông to lớn tàn bạo ở thế kỉ 13, một Vương triều Trần hưng thịnh và oanh liệt, một quốc gia Đại Việt hùng cường làm rạng ngời những trang sử vàng dân tộc.

Sang phần tế lễ, Đội Tế phường Trung Phụng của Hội Di sản Văn hóa Thăng Long – Hà Nội được vinh dự đảm trách thực hiện nghi thức thiêng liêng tế yết Tiên tổ họ Trần và kính dâng tâm nguyện của dân con lên Đức Thánh. Điệp văn tế cuốn hút mọi người, dâng trào xúc động khi toát lên một vị Tiết chế nguyên nhung mà Nhà Trần tôn xưng “Thái sư Thượng phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên súy, Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương”, và Vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông đã cho dựng Sinh từ Hưng Đạo khi Hưng Đạo còn sống để thờ cúng tại đền Vạn Kiếp. Dân con của Đức Thánh Trần nhập tâm rằng, Ngài là vị Anh hùng dân tộc kiệt xuất, đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Khi đọc Điệp văn tế, bà chủ tế đôi lúc rưng rưng nghẹn lời nhưng cố đọc cho tròn chữ nghĩa. Hòa trong sự sâu lắng tâm linh, mọi người dường như cảm nhận Đức Thánh đã hiển hiện, về bên con cháu, độ trì sự tốt lành cho mọi người. Một nhà ngoại cảm tiết lộ thông tin, cho biết tại đền Trần Sơn Hải có độ Tâm linh (Năng lượng tâm linh) đạt chỉ số cực hạn 20.000 bovit.

Lễ giỗ dâng hương Đức Thánh Trần để lại sự sâu lắng trong mọi người dự lễ, là kết quả sự phối hợp – đồng tổ chức của Hội đồng Trần tộc Việt Nam và UBND phường Chương Dương. Riêng ông Trần Văn Hai, ủy viên thường trực Hội đồng Trần tộc và là thủ nhang đền Trần Sơn Hải đã đóng góp công sức lớn để lo liệu vài trăm xuất thụ lộc Thánh cũng như dựng sân khấu, làm tấm pa-nô, trang trí và trang bị âm thanh…

Thiêng liêng và tầm cỡ của Đức Thánh Trần là khởi nguồn “Dự án tu bổ trùng tu đền Trần Sơn Hải” đang được xem xét. Đền Trần Sơn Hải thờ chư vị Đức cao cả, Chí tôn: Phật Hoàng Trần Nhân Tông cùng Tam tổ Thiền phái Trúc Lâm, thờ Mẫu, thờ các Vương hầu, danh tướng nhà Trần. Phải chăng dấu ấn thiêng liêng về đền Trần Sơn Hải đã kích hoạt ngòi nổ kho trí tuệ tư duy để GS, TSKH, VS Nguyễn Trường Tiến đề xuất “Dự án đầu tư xây dựng Làng Văn hiến Hồng Hà và Bảo tàng Phật Hoàng Trần Nhân Tông”. Được biết, Viện Trần Nhân Tông tại Hoa Kì cũng đề xuất Dự án xây dựng Bảo tàng Trần Nhân Tông tại Hà Nội. Các sự kiện song hành như vậy, có lẽ do những tư tưởng lớn đã bắt nhịp cùng nhau. Là con của Cha – Đức Thánh Trần, chắc mỗi chúng ta mong chờ các Dự án trên trở thành hiện thực.

Chủ tich Hội đồng Trần tộc Việt Nam Lễ rước tượng Đức Thánh Trần

TS Trần Mạnh Quảng phát biểu

Đội tế Hội di sản văn hóa Thăng Long Đại tướng Trần Đại Quang,

tế Đức thánh Trần Bộ trưởng Bộ Công an

thành kính bái lễ Đức thánh Trần

B ài và ảnh Trần Văn Kinh

TTK HỘI ĐỒNG TRẦN TỘC VIỆT NAM

Ngày 5-10-2012

Có phải bạn đang tìm kiếm ?

Thiêng liêng, ngày giỗ Đức thánh Trần

Khám phá phần ‘thiêng liêng’ nhất ở Hoàng thành Thăng Long

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tín Ngưỡng Thờ Đức Thánh Trần Trong Tâm Thức Người Việt. trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!