Top 7 # Xem Nhiều Nhất Bài Cúng Hết Tang 3 Năm Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Herodota.com

Giỗ Hết Tang – Ngày Giỗ Trọng Đại

Giỗ hết – Ngày giỗ trọng đại

Giỗ hết còn gọi là Lễ đại tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm. Giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời nên giỗ hết thường được tổ chức long trọng, con cháu, người thân có mặt đông đủ, khách mời dự cũng được mở rộng. Ngày giỗ đại tường làm cho con cháu nhớ lại lúc lâm chung của người đã khuất và nhắc lại những kỷ niệm sâu xa giữa người chết và người sống. Câu giỗ “Chung thân chi tang” của người xưa là vì vậy. Trong ngày giỗ hết, con cháu vẫn còn mang mặc tang phục (ngày nay chủ yếu là đeo băng tang trước ngực) để cúng giỗ và để đáp lễ của khách. Lễ đại tường được cử hành long trọng, thậm chí, trong các gia đình giàu có thường diễn ra cuộc tế vong.

Ngày này, người ta cũng đốt vàng mã cho người đã khuất và thậm chí vàng mã đốt còn nhiều hơn trong ngày giỗ đầu. Bởi người ta quan niệm rằng, mã đốt trong giỗ đầu là mã biếu, tức là, người chết nhận được đồ dùng của con cháu đốt xuống, phải đem biếu các ác thần để tránh mọi sự quấy nhiễu. Trước khi đốt mã, phải cúng lễ ngay ở mộ người đã khuất và đốt mã ngay trước mộ. Những gia đình khá giả còn làm chay ngay tại mộ, mời tăng ni tới cúng, tụng kinh niệm Phật xong mới đốt mã. Cỗ bàn trong ngày đại tường rất linh đình. Ngoài việc “trả nợ miệng”, con cháu còn nghĩ rằng từ trước tới ngày này, hương hồn của người đã khuất còn luôn luôn phảng phất trong nhà, nhưng rồi đây, sau ngày lễ này, người khuất sẽ ít về thăm hơn nên con cháu muốn dâng một bữa tiệc thịnh soạn cho người đã khuất trước lễ đoạn tang (lễ trừ phục). Lễ đoạn tang (lễ trừ phục) là lễ bỏ hết mọi đồ tang phục, được tổ chức sau lễ giỗ hết 3 tháng. Trong lễ này, người ta làm 3 việc chính là sửa sang, đắp điếm cho mộ phần to đẹp thêm; đốt hủy các thứ thuộc phần tang lễ (khăn áo, băng tang, gậy chống, rèm sô, câu đối, trướng điếu…) và cáo yết tổ tiên để xin cho rước linh vị vào bàn thờ gia tiên. Sau lễ này người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám, vui chơi; người vợ có chồng chết có thể đi bước nữa. Tuy nhiên, hiện nay, hầu như sau giỗ hết là người ta đã bỏ tang chế, nhất là với những người chết được hỏa táng thì người ta cho rằng họ đã sớm được “sạch sẽ” nên lễ Đoạn tang sẽ tiến hành ngay sau giỗ hết chứ không phải chờ thêm 3 tháng nữa.

Ngày đại tường hết, ngày giỗ năm sau, năm thứ ba, người khuất đi xa là những ngày giỗ thường hay được gọi là ngày kỵ nhật. Việc cúng lễ sẽ cử hành như những người qua đời trước nên ngày giỗ hết là ngày giỗ trọng đại nhất trong tất cả những ngày giỗ./.

Văn Khấn Ngày Giỗ, Bài Cúng Giỗ 3 Năm, Cúng Lễ Ngày Giỗ Hết (Lễ Đại Tường) Như Thế Nào

Rate this post

Đang xem: Cúng giỗ 3 năm

Những bài chia sẻ hay nhất

Tìm hiểu về thủ tục cúng giỗ

Ngày giỗ hay còn gọi là thủ tục ma chay, là ngày mất của một thành viên nào đó trong gia đình tính theo thời gian âm lịch. Là dịp để người thân, con cháu tổ chức cúng cơm hàng năm để tưởng nhớ đến người đã mất, là thời điểm thích hợp để gặp mặt nhận họ hàng và bàn bạc về các công việc chung của gia đình nói riêng và dòng họ nói chung.

Cúng giỗ ông bà, cha mẹ đã khuất luôn được thực hiện chỉn chu, nghiêm trang

Thủ tục cúng giỗ vào ngày nào đúng?

Trong phong tục ma chay, cúng giỗ, dựa vào thời gian mất của người đã khuất con cháu sẽ tiến hành 3 ngày giỗ với 3 nghi thức khác nhau. Gồm:

+ Giỗ đầu: Là ngày giỗ đầu tiên của người đã mất được tiến hành sau 1 năm về cõi vĩnh hằng. Giỗ đầu cũng là thời gian nằm trong kỳ tang chế, vẫn đang trong không khí bi ai và buồn thảm.

Có 3 ngày giỗ với 3 thủ tục cúng giỗ+ Giỗ hết: Là ngày giỗ được tiến hành sau khi người quá cố đã mất được hai năm. Thủ tục ma chay trong thời gian này vẫn được tổ chức với nghi thức trang nghiêm.

+ Giỗ thường: Là ngày giỗ được tiến hành sau khi quá cố đã mất được 3 năm trở lên. Đối với ngày giỗ thường, người thân, con cháu sẽ không mặc tang phục nữa. Là thời điểm để con cháu sum họp lại với nhau, tưởng nhớ người đã mất, trò chuyện và bàn bạc về chuyện gia đình hay dòng họ.

Bài văn khấn trong thủ tục cúng giỗ

Khi tổ chức các thủ tục cúng giỗ, không thể thiếu bài văn cúng giỗ đầu. Thực tế, các bài văn khấn giỗ đầu có sự khác nhau giữa các đối tượng, cấp bậc. Khác nhau giữa văn khấn cúng giỗ ông bà nội ngoại với cha mẹ, chồng chồng. Khác nhau giữa văn khấn cúng giỗ trẻ sơ sinh với bà cô tổ, ông mãnh.

Khi cúng giỗ không thể thiếu bài văn cúng giỗBài viết hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn một số bài văn cúng giỗ đầu, cụ thể:

Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương. Hôm nay là ngày…tháng…năm…, âm lịch tức ngày….tháng…năm…dương lịch.

Tại (địa chỉ):……Con/cháu/ phu/ thê là………cùng các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.Nay nhân ngày lễ Chung Thất theo nghi lễ cổ truyền, có kính cẩn sắm các thứ lễ vật gồm có:…………

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của ….(tên người đã khuất)

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Cha/ mẹ/vợ/ chồng/con/cháu… đi đâu, vội vàng chi mấy

Trời cao có thấy, thảm thiết muôn phần thương thay!

Đời người giấc mộng, hình ảnh phù vân

Ngày tựa chim hay, tiết vừa bốn chín (hoặc trăm ngày)

Thoi đưa thấm thoát nay đã bảy tuần (hoặc trăm ngày)

Cây lặng gió lay, khóc làm sao được

Lưng cơm đĩa muối, gọi chút đền ân

Xin cha (mẹ) về thượng hưởng.

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ

Tín chủ (chúng) con là:………… Tuổi……………………

Ngụ tại:………………………………………………………..

Hôm nay là ngày……………tháng……….năm….…………(Âm lịch).

Chính ngày Giỗ Đầu của:………………………………………………

Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tâm thành.

Thành khẩn kính mời:…………………………..Mất ngày tháng năm (Âm lịch):………………………………………..

Mộ phần táng tại:…………………………………………..

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!

Đây là Website chính thức của công viên nghĩa trang Hòa Bình

Tham khảo bảng giá đất nghĩa trang Lạc Hồng Viên: Tại đây!

Lễ Đàm Tế (Tức Là Lễ Hết Tang Trừ Phục)

Rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ

Chép sẵn linh vị mới phủ giấy (hoặc vải) đỏ, khi Đàm Tế ở bàn thờ tang xong, thì đốt linh vị cũ cùng với bảng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.

Trường hợp nhà không có bàn thờ chính thờ gia tiên bậc cao hơn thì không phải làm lễ này mà yết cáo gia thần và yết cáo Tổ ở nhà thờ tổ.

Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

– Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

– Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ

Hôm nay là ngày… tháng…. năm… tại tỉnh… huyện… xã… thôn…

Tín chủ là…………(nếu lễ gia thần) hoặc Hậu duệ tôn là…………(nếu lễ gia tiên, tự xưng hô với vị được liệt thờ cao nhất).

Quỳ trước linh vị của………… (đọc linh vị của vị thờ cao nhất), liệt chư Tiên linh.

Kính nghĩ:Gót tiêu dao, mịt mù mù mịt, đâu hạc nội, đâu mây ngàn?

Cõi trần thế, thay đổi đổi thay, nay sương dâu, mai bãi bể.

Lá rụng về cội, phách tuy giáng, hồn lại được siêu thăng.

Nước chảy về nguồn, thác là quy, sinh chẳng qua tạm ký.

Nhân sinh do tổ, gốc phải vững, phúc quả mới mong bền;

Hiểu tử sự thân, tế như tại, nhân tâm nào dám phế.

Bày nhân: Hiển khảo (hoặc tỷ)…………(đọc linh vị bố hoặc mẹ)

Thọ chung ngày…………..tính đến nay đã:

Quý húy Đại Tường;

Đến tuần Đàm Tế.

Quá hai năm trừ phục, cáo Tiên linh;

Đủ ba tháng dư ai, theo cổ lệ.

Cầu gia thần chứng giám, cho từ đường phảng phất linh hồn;

Nguyện Tiên Tổ phù trì, để bạch triệu quy hồi phách thể.

Đến ngày giỗ chạp, con cháu nhớ tháng ngày,

làm lễ dâng hương;

Nối gót Tổ Tiên, ông cha tiếp thế thứ, theo hàng phối tế.

Lễ bạc, kính dâng gọi chút, há dám quên cây cội, nước nguồn;

Suối vàng, như thấu cho chăng, họa may tỏ trời kinh, đất nghĩa.

Xin kính mời: Hiển…………………Hiển…………………………………Hiển…………………………………

Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về hâm hưởng.

Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo Quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ tư Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.

Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Phần 3: Tang Lễ Những Điều Cần Biết (Cúng 3 Ngày)

Dân gian quan niệm rằng khi chôn cất sau 3 ngày thì hồn phách người chết hội lại tỉnh táo rồi, nhưng nếu không mở cửa mả thì họ không tỉnh hẳn được, không thể trở lên mặt đất, cũng không biết đường về nhà, vì vậy cần làm lễ mở cửa mả để cho vong linh tỉnh hẳn có thể lên dương thế và tìm đường về nhà (nơi đặt bàn thờ). Quan niệm này ở mỗi vùng miền đều có cách làm khác nhau, cách gọi cũng khác nhau như : Cúng 3 ngày, Mở cửa mả hay ngày tam chiêu…

Chúng tôi xin giới thiệu Cúng 3 ngày và Lễ Tam chiêu như sau

CÚNG 3 NGÀY

Sau khi an táng đến ngày thứ ba, con cháu và thầy cúng ra mộ, cúng mở cửa mả, đắp thêm cho mộ được cao ráo đẹp đẽ, lấy tre nứa rào chung quanh để trâu bò không vào được, rồi về nhà cúng ba ngày.

Tùy nơi có cách tính ba ngày khác nhau. Một số địa phương tính từ ngày mất là ngày thứ nhất. Cách này là do chỉ để người mất, quàn tại gia một ngày đêm, nên sau ngày chôn là đến ngày thứ ba, tiến hành cúng ba ngày luôn, như vậy là hợp lý.

Một cách tính nữa, tính từ ngày chôn là ngày thứ nhất. Trường hợp này do quàn tại gia hoặc ở nhà lạnh của bệnh viện quá ba ngày, để chờ con cháu về đông đủ.

Dân ta quan niệm rằng sau khi chôn, hồn vẫn còn phiêu diêu chưa ổn định. Mặt khác trước khi chôn, bàn thờ người chết chưa thật sự yên vị, vì bàn vong di chuyển ra nghĩa địa rồi lại đưa về. Đến ngày thứ ba mọi việc đã chu tất cho bàn thờ, mời hồn người chết về yên vị tọa lạc để con cháu phụng thờ.

Bàn thờ người mới mất để ở vị trí riêng biệt, chưa được đưa thờ chung ở bàn thờ Gia tiên. Vì người mới mất chưa được sạch sẽ. Sắp đặt bàn thờ có ảnh, bát hương…và các thứ cần thiết. Tùy số lượng câu đối trướng mà treo cho hợp lý quanh bàn thờ. Phía sau bàn thờ, treo cao những bức trướng của dòng họ, tổ chức, tập thể; rồi đến trướng các gia đình thông gia, họ mạc…bạn bè thân hữu. Có thể treo vây quanh tạo không gian ấm cúng cho bàn thờ.

Thủ tục cúng ba ngày phần lớn vẫn do thầy cúng làm.

Từ đây đèn hương liên tục thắp cả ngày và đêm. Bàn thờ có nước, trầu, rượu, hoa quả; vài hôm thay một lần. Hàng ngày sáng chiều đến bữa, đều cúng cơm, coi như cha mẹ, ông bà vẫn bên con cháu dùng bữa hàng ngày. Cúng cơm này không cầu kỳ, trong nhà ăn gì cúng thức ấy, chỉ một ít tượng trưng, có bát đũa đặt trong một khay nhỏ, và rượu nước, trầu cau…

Trước đây cúng ba ngày, còn là dịp để tang chủ mời bà con trong họ ngoài làng, bạn bè thân hữu gần xa đến bầy tỏ lòng cám ơn, xin đại xá cho những thiếu sót, khiếm khuyết không tránh khỏi. Sau đó là tổ chức ăn cỗ. Bây giờ tục lệ ăn cỗ ba ngày mở rộng như vậy không còn nữa. Tang chủ có mời cũng không mấy ai đi. Tang chủ cám ơn qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh và vô tuyến truyền hình.

Việc cúng cơm thường nhật, duy trì ít nhất đủ tuần 49 ngày. Có nhà duy trì đến tuần 100 ngày mới thôi. Hương đèn từ đây cũng tắt.

Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn.

Xét trong điển lễ thì không có “lễ ba ngày” mà chỉ có “lễ tế ngu” gồm có “sơ ngu”, “tái ngu”, “tam ngu”. “ngu” nghĩa là “yên”, tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách, theo “Thọ mai gia lễ” thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (tức là ất, kỷ , tân, quí) làm lế tái ngu, gặp ngày cương (tức là ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ tam ngu.

Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Kính lạy: Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương Đức Đông Trù Tư Mệnh Táo phủ Thần quân Đức Gia tiên và các hương linh nội, ngoại Hôm nay ngày….tháng….năm……(Âm lịch) Con trai trưởng là:……. cùng toàn gia quyến Nhân ngày Tế Ngu (cúng ba ngày) theo nghi lễ cổ truyền Chúng con kính sửa trầu rượu, cụ soạn Dâng lên trước linh toạ khóc mà than rằng: Than ơi! Vật đổi sao rời, mây bay, trăng khuyết Khá trách thay tạo hoá đa đoan. Chi đến nỗi đàn con đau đớn. Nhớ cha (mẹ) xưa tính nết thảo hiền, dưới nhường trên kính, Ngoài làng trong họ, kẻ mến người yêu Tưởng cảnh đoàn viên Trời cho sống tròn tám chín mười mươi tuổi; Để đền công ơn ba năm bú móm, Sẻ ngọt chia bùi một nhà sum họp Trời cho sông đủ ba vạn sáu ngàn ngày Đê đền ơn chín tháng cưu mang, đẻ đau mang nặng. Thương ơi! Tóc tơ chưa báo, công đức chưa đền. Bỗng đâu một phút hơi tàn, Âm cung hạ cánh muôn năm giấc mộng; hia Bắc rẽ Nam, đành rằng phách lạc bơ vơ Tàng hiềm đã yên một giấc, Hồn bay phảng phất biết đâu mà về. Dẫu khóc vắn, than dài, tim đâu cho thấy; Dẫu tối kêu sớm gọi, khôn nỗi dò la. Thôi thỉ thôi! Hơn một ngày không ở, kém một ngày không đi; Không còn sớm tối trông nom, khuyên răn lủ cháu. Sông mỗi người một nết, chết mỗi người một chứng; Không còn người ngày đêm dạy bảo, săn sóc đàn con. Nay sơ Ngu Tế (Tam Ngu Tế) dâng chút lòng thành Đĩa muôi, lưng cơm, chén canh, đài rượu. Công đức cao dày; trên linh toạ chứng tinh chay nhạt; Khóc than kể lể, dưới suôi vàng thoả chí vẫy vừng.

NGÀY LỄ TAM CHIÊU (NGÀY MỞ CỬA MẢ)

Nguồn : Sưu tầm

Trước tiên nói về ngày Tam Chiêu mà người thế gian còn gọi là ngày (Mở Cửa Mả): Dân gian quan niệm rằng khi chôn cất sau 3 ngày thì hồn phách người chết hội lại tỉnh táo rồi, nhưng nếu không mở cửa mả thì họ không tỉnh hẳn được, không thể trở lên mặt đất, cũng không biết đường về nhà, vì vậy cần làm lễ mở cửa mả để cho vong linh tỉnh hẳn có thể lên dương thế và tìm đường về nhà (nơi đặt bàn thờ).

Đó là quan niệm dân gian, còn nếu nói về tâm linh thì lại là chuyện khác: Kỳ thực Tam Chiêu tức là một thời gian ước lượng, khi chết con người sẽ chia phần PHÁCH ra thành 7 phần (với nam và nữ chưa có con) và 9 phần với nữ đã sinh con tương ứng với thất khiếu (7 lổ) và cửu khiếu (9 lổ) trên người, những phần phách này được gọi là VÍA.

Vậy thì 3 hồn (THẦN HỒN, THÂN HỒN, TÂM HỒN) và 7 hay 9 VÍA được thoát ra đó sẽ được hội lại dần dần, có người sẽ rất nhanh nếu là người chết thanh thản, an nhiên, và sẽ lâu hơn với người chết uất ức, tức tưởi hay oan khuất. Thông thường thời gian hoàn hồn là từ 3-7 ngày, nhưng người ta thường làm lễ vào ngày thứ 3, và vì vậy cho nên đa phần là chưa hội đủ hồn phách (vong linh như người lơ mơ, giống như người thường ngủ mới thức giấc, chưa thật sự tỉnh táo) vậy cho nên người ta mới làm lễ TAM CHIÊU (tức là Chiêu Hồn vào ngày thứ 3 hay còn gọi nôm na là Mở Cửa Mả).

Chuẩn bị lễ vật:

Cách làm lễ mở cửa mả theo dân gian thì ai cũng biết (gồm những điều quan trọng như là: Cấm 4 ống trúc ở 4 góc mả để đánh dấu 4 hướng Đông Bắc, Nam Tây giúp vong linh định hướng khi trở lên), có làm một cây thang giả (để hồn phách biết là phải đi lên mới ra khỏi mả được), dùng một con gà (tượng trưng cho việc kêu gọi tỉnh táo) giúp cho các hồn phách nhanh chóng hội tụ lại, và dùng giấy tờ vàng mã hay gạo muối rãi ra đất làm dấu cho vong linh biết đường theo đó mà đi về nhà! Và dùng một cây mía dựng bên mả (dụng ý thay cho cây niêu định vị cho hồn phách tụ lại đây).

Ý nghĩa của việc cúng mở cửa mả:

Một cái thang bằng bẹ chuối (nam 7 bặc, nữ 9 bặc), môt cây mía lao để cả ngọn, một ít tiền vàng mã

Hai lọ hoa, hai đĩa trái cây (1 cúng đất đai, 1 cúng vong)

Ba ống trúc dài khoảng bốn tấc (40cm) vót nhọn một đầu: 1 đựng muối, 1 đựng nước, 1 đựng nước – bịt lại bằng nilon trên đầu

Bốn cây nến

Năm thứ đậu (100 gram chung cho 5 thứ), năm thẻ tre dài 4 tấc (40cm) vót nhọn 1 đầu (để làm bài vị cúng ngũ phương ngũ thổ tôn thần)

Sáu chén chè, hai đĩa xôi, một bộ tam sênh (trứng, thịt, tôm)

Bảy cái chén, một bình trà, một chai rượu

Một con gà trống Sắp đặt lễ cúng: * Cắm ba ống trúc có gạo, muối, nước dưới chân mộ, dựa cái thang vào 3 ống trúc, đằng sau, phía trên để cài bài vị.

Bày hai mâm lễ cúng có chè, xôi, hoa, trái cây, trà rượu, giấy tiền vàng mã trước mộ (dưới chân) để cúng vong và ở một nơi sạch sẻ gần đó để cúng thần.

Cắm năm thẻ tre đã được dán bài vị ngũ phương ngũ thổ tôn thần ở bốn góc và giữa mộ phần.

Thắp hương trước mộ, mâm cúng thần và các bài vị tôn thần cũng như ở các ngôi mộ xung quanh. Nghi thức cúng:

Thắp nhang khấn xin chư vị tôn thần dẫn dắt linh hồn người chết về nghe kinh, chứng minh lễ khai mộ.

Thầy tụng kinh thỉnh chư vị tôn thần và triệu linh, làm phép sái tịnh

Gia đình chia nhau mỗi người một ít đậu, một người đại diện cầm cây mía, dắt con gà theo thầy đi quanh mộ vừa niệm phật, vừa rải đậu.

Sau khi đi đủ ba vòng trở lại vị trí cũ, đốt giấy tiền vàng mã, lạy tạ tôn thần và dẫn vong trở về nhà cúng an linh.

Theo dân gian thì là như vậy: Vậy một vài điều cần lưu ý trong ngày Tam Chiêu là gì?

Cây thang nam bảy nấc, nữ chín nấc là để người chết leo ra khỏi huyệt mồ. Năm thứ đậu và gạo muối cùng nước dùng để hồn người chết ăn uống cho no dạ. Còn cây miá lau chín đốt là tượng trưng cho chín chữ cù lao, vì lau là lao đồng âm. Còn con gà con để tượng trưng các con nay côi cút như gà con lìa mẹ. Gà con còn được hiểu là gà linh, khi bị đánh nó kêu lên làm vong hồn người chết đang mê muội chưa biết mình đã chết, tỉnh ra.

Thứ nhất: Về thời gian chiêu hồn thì không phải hễ 3 ngày thì đã hội được đâu, nhưng người ta làm vậy để cho hồn phách sớm hội tụ lại mà thôi, cho nên với những người bị oan thác, chết tức tưởi, đột ngột thì nên làm thêm 1 lần vào ngày thứ 7 sau khi nhập thổ.

Thứ hai: Về quần áo, vật dụng chớ nên đốt ngay khi chết hay chôn theo tất cả, chôn theo chẳng ích lợi gì cho vong linh đâu, họ có mang, có mặc được gì đâu, mà nên hỏa táng bên mộ vào ngày tam chiêu, sẽ giúp cho vong linh theo mùi của mình mà sớm hội hồn, tụ vía.

Thứ ba: không nhất thiết là cây mía làm niêu đâu, mà dùng cây gì cũng được, nhưng nên buộc một cái khăn của người mất trên đầu cây niêu để hồn vía được chiêu ứng sớm tụ được. Trên đầu cây niêu nên treo theo một chuông gió (điều này ít khi có người làm) vì vong linh còn chưa hội đủ hồn phách nên không thể nhìn chỉ cảm nhận qua mùi vị và sự rung động (âm thanh).

Thứ tư: Con gà không phải là tìm đại một con gà mới lớn là mở cửa mả được, mà nên tìm một con gà trống vừa tập gáy, sau khi dẫn gà đi quanh mộ 3 vòng thì nên nhốt gà lại để gà gáy giúp hồn phách hội lại chứ không phải dẩn đi loanh quanh làm gì không rõ như thế đâu, điều cần là tiếng gáy của nó mà lại không thấy, cái vô nghĩa thì lại cật lực mà làm! Sở dĩ nên chọn gà trống mới tập gáy vì chúng sẽ gáy liên tục không bị chi phối chứ không phải tìm đại một con gà là đúng.

Thứ năm: Việc rãi giấy vàng mả là điều vô minh, sở dĩ khi xưa người ta dụng vàng mã là vì đã ngâm ủ trong quần áo người chết rồi, có mùi chiêu cảm được rồi cho nên người ta mới rãi như thế, vì ngày xưa quần áo rất hiếm, đôi khi chỉ có một vài bộ chôn theo người mất mà thôi, ngày nay nên làm là dùng một bộ quần áo nào người đó còn sống hay mặc nhất rồi tháo ra thành từng sợi chỉ nhỏ mang số chỉ vải đó rãi ra đường làm định hướng cho vong linh biết đường mà về lại nhà.

Vài điều chia sẻ, hy vọng hữu ích! Chúc tất cả an lạc, tinh tấn!!!

Nguồn (Quy luật tam giới)

Qúy khách hàng có nhu cầu tìn hiểu về đất nghĩa trang và đăng ký tham quan Thiên Đức vĩnh hằng viên miễn phí vào thứ 7&CN hàng tuần,

——-

Xin vui lòng liên hệ Hotline: 0985 85 99 72