Top 13 # Xem Nhiều Nhất Dâng Hoa Cúng Dường Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Herodota.com

Dâng Hoa Cúng Dường Chư Phật

Dâng hoa cúng dường chư Phật sẽ là cao tột cùng trong các pháp, nếu đó là hoa của Giới, của Định và của Tuệ

Cúng dường nào có công đức lớn nhất?

Truyền thống cúng dường Tam bảo đã có từ thời các vị cổ Phật. Trong thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vị nổi bật trong hạnh cúng dường là Trưởng giả Cấp Cô Độc, được gọi là người thực hành đại bố thí nhất, từng cúng đến nhiều ngàn ức vàng. Không có nhiều phương tiện và cơ duyên như ngài Cấp Cô Độc, người cư sĩ thường giữ hạnh cúng dường tứ sự để duy trì Chánh pháp và để chư tôn đức Tăng-già có phương tiện tu hành và hoằng pháp. Tuy nhiên, để cúng dường Đức Phật, có một kinh cho biết rằng cúng dường hương hoa là thích nghi nhất. Có phải hương hoa là một ẩn nghĩa? Cũng có thể vì Đức Phật từng tự ví như hoa sen… Kinh Tương ưng bộ 22.94, bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật:

“Ví như, này các Tỷ-kheo, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước nhiễm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai sanh ra ở trong đời, lớn lên trong đời, vươn lên khỏi đời, và sống không bị đời ô nhiễm”[1].

Truyền thống cúng dường Tam bảo đã có từ thời các vị cổ Phật.

Đốt thân thể cúng dường chư Phật

Trong Tăng nhất A-hàm, có kinh EA-20.3, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, có đoạn viết là khi nói về cúng dường, ghi rằng nên cúng Đức Phật hương hoa thay vì vàng bạc trân bảo.

Kinh này trích như sau:

“… Ông lại nghĩ như vầy: ‘Trong sách có ghi, Như Lai không nhận vàng bạc trân bảo, ta có thể đem năm trăm lạng vàng này, dùng mua hoa hương rải lên Như Lai’. Lúc đó, bà-la-môn liền vào trong thành tìm mua hương hoa”[2]

Khi nói nên cúng hương hoa thay vì vàng bạc trân bảo, có thể vì hương hoa mang ẩn nghĩa là hoa của giới, hoa của định, hoa của tuệ? Cũng có thể có ẩn nghĩa đó.

Bởi vì kinh Tăng chi bộ 5.175, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi lời Đức Phật rằng hoa sen còn tượng trưng Chánh tín của người cư sĩ.Kinh này trích như sau:”Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ. Thế nào là năm? Có lòng tin; có giới; không đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; không tin tưởng điềm lành; tin tưởng ở hành động; không tìm kiếm ngoài Tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ”[3].

Trong khi chúng ta đọc Thánh nhân Ký sự, bản dịch của Tỳ-khưu Indacanda[4], ghi về các cơ duyên tiền kiếp của các Trưởng lão A-la-hán nổi bật, sẽ thấy trong những kiếp lâu xa về trước, các vị đó khi còn là cư sĩ, hoặc khi còn là một chúng sanh trong loài thú, rất nhiều trường hợp đã dâng hoa cúng dường cho các vị cổ Phật.

Nếu không có cơ duyên gặp Đức Phật, chúng ta có thể dâng cúng các bậc Thánh Tăng cũng được nhiều phước duyên thiện lành.

Cúng dường đúng pháp và lợi ích của cúng dường Tam bảo

Như trường hợp của Trưởng lão Pāṭalipupphiya, trong một kiếp xa xưa, khi là con trai của một nhà triệu phú đã cầm một bông hoa tới dâng cúng Đức Phật Tissa. Đọc tích này, chúng ta có thể nhận ra rằng con trai của nhà triệu phú tất nhiên có rất nhiều vàng bạc trân bảo, nhưng trong mắt của chàng trai này, quý giá nhất lúc đó là bông hoa pāṭali và cậu đã dâng cúng hoa này.

Trích Thánh nhân Ký sự, bản dịch của Tỳ-khưu Indacanda, về ngài Pāṭalipupphiya như sau:

“Ký sự về Trưởng lão Pāṭalipupphiya

Lúc bấy giờ, tôi đã là con trai nhà triệu phú, mảnh mai, khéo được nuôi dưỡng. Tôi đã đặt bông hoa pāṭali vào lòng và đã mang theo bông hoa ấy.

Bậc Toàn giác có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ. Ngài có ba mươi hai hảo tướng, tợ như cây cột trụ bằng vàng.

Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã cúng dường bông hoa. Tôi đã lễ bái Đấng Hiểu biết Thế gian Tissa, đấng Bảo hộ, vị Trời của nhân loại.

Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.Trước đây sáu mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị có tên Abhisammata, là đấng Chuyển luân vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

Bốn (tuệ) phân tích, – (như trên) – tôi đã thực hành lời dạy của Đức Phật”[4].

Để cúng dường Đức Phật, có một kinh cho biết rằng cúng dường hương hoa là thích nghi nhất.

Cúng dường cơm cháy chuyển nghiệp đọa địa ngục thành sinh thiên

Nếu chỉ cúng hoa, hẳn là không cần phải giàu như con của một nhà triệu phú như tiền kiếp của Trưởng lão Pāṭalipupphiya. Vì cũng trong Thánh nhân Ký sự, trong “Ký sự về Trưởng lão Kaṇaverapupphiya” kể rằng tiền kiếp lâu xa của Trưởng lão này chỉ là một người canh gác ở hậu cung đức vua. Đó là thời của Đức Phật có tên là Siddhattha.

Người lính gác này lúc đó đã dâng cúng bằng cách “… cầm lấy bông hoa kaṇavera và đã rải rắc ở Hội chúng Tỳ-khưu. Tôi đã thực hiện nhiều lần ở Đức Phật, sau đó đã rải rắc nhiều hơn nữa. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa…”.Trong khi đó, một nghệ nhân bình thường cũng có thể cúng hoa (đúng ra, nghèo cỡ nào, cũng cúng hoa được). Như trường hợp ghi trong Thánh nhân Ký sự, nơi “Ký sự về Trưởng lão Ucchaṅgapupphiya”, khi tiền kiếp lâu xa của Trưởng lão này là “người làm tràng hoa ở thành phố Bandhumatī” trong thời Đức Phật có tên là Vipassī.

Nên ghi nhận Trưởng lão nói rằng cúng hoa đã dẫn tới cơ duyên thoát khổ (hưởng phước) và tới cơ duyên hoàn toàn giải thoát (đoạn tận lậu hoặc, có nghĩa rằng cúng hoa mang ẩn nghĩa là hoa của Giới Định Huệ). Trích lời ngài như sau:

“(Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường Đức Phật.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc”.Thậm chí, loài chim cúng hoa cũng được hưởng phước. Đó là trường hợp Thánh nhân Ký sự ghi trong sự tích “Ký sự về Trưởng lão Salalapupphiya” – lúc đó ngài là “loài kim-xí-điểu” trong thời Đức Phật Vipassī, và kết quả từ khi “… tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường Đức Phật”.

Người trí không nương tựa vào bất kỳ gì, không thấy gì để trân quý hay ghét bỏ. Sầu khổ và tham đắm không dính vào người này, hệt như nước không dính vào chiếc lá.

Cách cúng dường cao quý nhất là Pháp cúng dường

Nếu không có cơ duyên gặp Đức Phật, chúng ta có thể dâng cúng các bậc Thánh Tăng cũng được nhiều phước duyên thiện lành. Thánh nhân Ký sự trong “Ký sự về Trưởng lão Tivaṇṭipupphiya” kể rằng một tiền kiếp Trưởng lão này dâng cúng hoa cho nhà sư “có tên Sunanda, Thanh văn của Đức Phật bậc Hiền Trí Dhammadassī”. Kết quả ghi là “… tôi đã không đi đến đọa xứ trong một ngàn tám trăm kiếp”.

Trong kinh Pháp cú Nam truyền, có một phẩm tên là Hoa. Bài kệ 54 và 55 do Thầy Minh Châu dịch như sau:

“Hương các loại hoa thơm, không ngược bay chiều gió. Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, tỏa khắp mọi phương trời. Hoa chiên-đàn, già-la, hoa sen, hoa vũ quý, giữa những hương hoa ấy, Giới hương là vô thượng”[5].

Trong khi đó, Đức Phật cũng từng dạy rằng hãy giữ tâm “vô sở trụ” y hệt như nước bùn không dính vào hoa sen được. Lời dạy đó nằm trong nhóm kinh Nhật tụng Sơ thời, các kinh chư Tăng dùng làm nhật tụng trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Đó là kinh Tương ưng bộ Sn 4.6 (Jara Sutta).

Bản dịch của Nguyên Giác trích như sau:

“Người trí không nương tựa vào bất kỳ gì, không thấy gì để trân quý hay ghét bỏ. Sầu khổ và tham đắm không dính vào người này, hệt như nước không dính vào chiếc lá.

Như giọt nước trên lá sen, như nước không dính vào bông sen; những gì được thấy, nghe, nhận biết không dính mắc gì vào người trí.

Người thanh tịnh không khởi niệm tư lường về những gì được thấy, nghe, nhận biết, cũng không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào vì đã không còn gì để tham đắm hay ghét bỏ”[6].

Đọc kỹ bài kinh vừa dẫn, sẽ thấy đó là pháp tu “không có gì để tu hết” của Thiền tông, cũng là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Bởi vì “không khởi niệm” và “không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào” cũng có nghĩa là buông hết cả ba thời, và là xa lìa ngũ uẩn của ba thời quá, hiện, vị lai.

Người thanh tịnh không khởi niệm tư lường về những gì được thấy, nghe, nhận biết, cũng không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào vì đã không còn gì để tham đắm hay ghét bỏ

Ý nghĩa của bố thí và cúng dường

Ngài Trần Nhân Tông gọi đó là “Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” – là đối trước cảnh, tâm không dao động, thì chớ hỏi Thiền làm chi. Lục tổ Huệ Năng cũng gọi đó là “Chớ nghĩ thiện, chớ nghĩ ác…” và kinh Kim cang gọi đó là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”…

Bất kỳ ai cũng có thể nhìn lại tâm mình, và chớ nghĩ gì tới thiện/ác, lành/dữ, và chớ nghĩ gì tới quá/hiện/vị lai… ngay khi đó, chính là một cái nhìn của tỉnh thức, của tịch lặng, của xa lìa tham sân si. Ngay đó là Niết bàn, ngay trước mắt. Và đó chính là hương hoa cúng dường chư Phật.

Ghi chú:

1. Kinh Tương ưng bộ SN 22.94: https://suttacentral.net/ sn22.94/vi/minh_chau.

2. Kinh Tăng nhất A-hàm, Kinh EA-20.3: https://suttacentral. net/ea20.3/vi/tue_sy-thang.

3. Kinh Tăng chi bộ AN 5.175: https://suttacentral.net/ an5.175/vi/minh_chau.

4. Thánh nhân Ký sự, bản dịch Tỳ-khưu Indacanda: https:// www.tamtangpaliviet.net/VHoc/39/Ap_00.htm. và https://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/40/Ap_00b.htkm.

5. Kinh Pháp cú: https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham- 01-10.

6. Kinh Tương ưng bộ 4.6: https://thuvienhoasen.org/p15a30599/ sn-4-6-jara-sutta-kinh-ve-tuoi-gia.

Theo Văn hoá Phật giáo số 337-338 ngày 15-01-2020 > Xem thêm video: Tu thân theo lời Phật dạy:

Nguyên Giác

Công Đức Dâng Hoa Cúng Dường Phật

Phật Thích Ca Mâu Ni đang thuyết pháp tại núi Linh Thứu, Đại Phạm Thiên Vương dâng lên cành hoa Kim Sắc Ba La Mật, Phật liền nâng cành hoa lên để thị ý đại chúng, đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp “Phá nhan vi tiếu – mĩm miệng cười”. Ngài nói: “Đây là pháp môn không lập văn tự, truyền ngoài giáo điển, hiện tại giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhân thế mà Thiền Tông tôn Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Sơ Tổ. Thành ngữ “Phá nhan vi tiếu – miệng mỉm cười” nầy cũng nói rỏ việc dâng hoa cúng Phật, đã có từ thời Ngài còn tại thế.

Hoa dùng để cúng dường chư Phật Bồ Tát là chỉ cho các loại hoa thực vật, tiếng Phạn dịch là “Bổ Thệ Ba”, kinh Phật thường gọi là “Hoa”. Phật giáo Ấn Độ, hoa cúng dường là một trong sáu món dùng để dâng cúng Phật Bồ Tát, các món cúng dường nầy đều có sự biểu trưng.

Theo Du Già Diệm Khẩu (Bản khắc gỗ tại chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn):

– Hoa tiêu biểu cho bố thí, vì bố thí thì khiến người sanh hoan hỷ.

– Hương tiêu biểu cho trì giới, vì trì giới thì hạnh nghiệp thơm lừng.

– Đèn tiêu biểu cho nhẫn nhục, vì nhẫn nhục thì chuyển lửa sân hận thành ánh sáng lớn (đại quang minh).

– Đồ (Nước) là tiêu biểu cho tinh tấn, vì tinh tấn thì sẽ đượm nhuần pháp thân.

– Quả tiêu biểu cho thiền định, vì thiền định thì hay thành tựu được quả vị Phật.

– Nhạc tiêu biểu cho trí tuệ, vì trí tuệ thì hay sanh ra các pháp.

Đem hoa dâng lên chư Phật Bồ Tát còn gọi là hiến hoa, đem hoa rãi lên Phật đài, đạo tràng,… gọi là tán hoa.

Trong kinh điển Phật giáo thường đề cập đến hoa báu từ trên trời rơi xuống như phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa: “Nếu lúc muốn đi thì có hoa báu đỡ chân”. Hoa báu là chỉ cho các loại trân bảo hợp thành.

– Hoa cúng: Hao là một trong sáu loại cúng dường trong Phật giáo. Tập tục Ấn Độ truyền thống khi xưa thường dùng vòng hoa, rải hoa để cúng dường Phật. Vòng hoa là dùng chỉ kết lại thành, rồi đem đeo lên trên cổ của Thánh tượng để trang sức cúng dường. Tỳ-kheo không được dùng hoa để trang sức trên thân, chỉ được treo trong thất, hoặc dùng để cúng dường Phật. Kinh Phật chép: Ở trước Phật khen ngợi, thường có trời người rải hoa năm màu để cúng dường Phật.

Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Tất cả chư Thiên, đều dâng trăm ngàn hoa hương ở cõi trời, muôn thứ kỹ nhạc để cúng dường Đức Phật”.

Kinh Pháp Hoa chép: “Có đến 10 thứ cúng dường. Lại đem hoa để ở đầu tiên, nhân vì hoa rất thơm, đẹp dùng để trang nghiêm”.

Cho nên đem hương thơm thanh khiết của hoa dâng lên trang nghiêm cúng dường Phật. Ngoài ra, hoa còn là một biểu pháp, nhân vì những khí vật trong nhà Phật đều có hàm ý tiêu biểu. Trước Phật cúng hoa tiêu biểu cho nhân, sau khi hoa nở thì kết trái, hoa tiêu biểu cho 6 độ muôn hạnh. Hoa tiêu biểu cho thiền định, đem công đức tu thiền định để cúng dường Phật. Tất cả công đức đều là từ trong thiền định mà khơi mở, chỉ có công đức thiền định mới hay đoạn trừ phiền não, sạch hết sanh tử, cuối cùng chứng được quả Phật. Đem hoa cúng Phật sẽ được nhiều công đức phước báu thù thắng.

Soạn Tập Bách Dụ Kinh chép: “Có một người hái hoa, gom những bông hoa lại rồi kết thành tràng hoa cúng dường tháp Phật, sau khi chết đi được phước báu sanh về cõi trời”.

Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Kinh chép: “Đâng hoa cúng Phật được 10 thứ công đức:

1. Ở thế gian thường tốt đẹp như hoa.

2. Trên thân không có mùi hôi dơ.

3. Phước đức và giới hạnh lan tỏa khắp nơi.

4. Sanh ở chỗ nào lỗ mũi không hư hoại hay phân biệt được mùi của các loài hương.

5. Ở thế gian mà vượt hơn thế gian được mọi người kính ngưỡng.

6. Thân thường giữ được mùi hương thơm sạch.

7. Ưa thích nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng.

8. Có phước báu rộng lớn.

9. Mạng chung sanh về cõi trời.

10. Mau chứng được đạo Niết Bàn.

Hoa cúng dường Phật trong kinh điển ghi rằng: Thường thấy có hoa Ưu Bát La (hoa sen xanh), Bát đầu Đặc Ma Hoa (hoa sen hồng), Câu Vật Đầu Hoa (hoa sen trắng), Phân Đà Lợi Hoa (hoa sen trắng lớn) có 4 loại như thế. Hoặc Mạn Đà La Hoa, Ma Ha Mạn Đà La Hoa, Mạn Thù Sa và Ma Ha Mạn Thù Sa hoa, có 4 loại như thế.

Theo kinh Vô Lượng Thọ chép: “Bốn loại hoa trước được trang nghiêm ở cõi Cực Lạc”.

Theo kinh Pháp Hoa chép: “Bốn loại hoa sau từ trên cõi trời rơi xuống, là thứ 3 trong sáu tướng lành. dùng hao cúng Phật trong kinh cũng xác định rỏ ràng, không phải hoa gì cũng cúng được”.

Đà La Ni Tập Kinh, quyển 6 chép: “Hoa cây cúng dường thì có cành liễu, bá diệp, trúc, hoa tạp, quả chi,… hoa có mùi hôi, cây gai sanh hoa hoa có vị đắng cay, hoa không có tên,… đều không nên đem cúng.

Hiện tại trong chùa, ngoài việc dùng hoa tươi cúng Phật, còn có dùng giấy, lụa, vàng để chế thành hoa cúng ở trước Phật. Việc cúng hoa trong Phật giáo biểu đạt được tấm lòng kiền thành, lại cũng là việc gieo trồng công đức phước báu, trí huệ tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại và tương lai, từ đó cũng tự trang sức cho hoàn cảnh tự viện tốt đẹp.

(Nguồn chuahoiphuoc.net)

Ý Nghĩa Của Việc Dâng Hoa Cúng Dường Tam Bảo Là Gì? – Pháp Phục An Nhiên

Phật tử dâng hoa cúng dường đến Đức Phật để tưởng nhớ đến ân đức của Tam bảo. Vì lòng từ thương xót chúng sanh trong ba cõi, Ngài đã từ bỏ thế gian, ra đi tầm đạo giải thoát để tế độ chúng sanh. Thế Tôn là Người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.

Có câu:

Dâng hoa cúng dường Phật

Bậc thương xót muôn loài

Dâng hoa cúng dường Pháp

Ðạo nhiệm mầu cứu khổ

Dâng hoa cúng dường Tăng

Ruộng phước không gì bằng

Hoa tươi đẹp sẽ tàn

Thân giả hợp sẽ tan

Nguyện tu mau chứng đạt

Quả chân thường giải thoát .

Phật tử thường hay dâng cúng nhang đèn, bông hoa lên bàn thờ Phật như là một cách tôn kính và tưởng nhớ đến ân đức Tam bảo. Hương hoa, nhang đèn là phẩm vật không thể thiếu trong việc cúng dường. Khi nhang đèn cháy hết và những bông hoa héo tàn qua thời gian nhắc nhở tất cả chúng ta rằng cuộc sống này chỉ là phù du thoáng qua, tất cả đều sẽ biến hoại, cuộc sống vốn dĩ vô thường.

Dâng hoa cúng dường Pháp bảo để tưởng nhớ đến ân đức của Giáo pháp, những lời dạy của Thế Tôn được lưu lại trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sinh và được gìn giữ trong Tam tạng kinh điển. Pháp bảo chính là diệu dược có công năng tiêu diệt các bệnh phiền não của chúng sanh. Những ai thực hành theo Pháp bảo sẽ được mọi sự an lành, tiến hóa trong đời này và đời sau. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, không phải là chúng ta không còn Đạo sư hướng dẫn, chính những gì Ngài đã giảng dạy sẽ trở thành Đạo sư cho các hàng đệ tử noi theo. Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các ngươi.

Dâng hoa cúng dường Tăng bảo, những đệ tử xuất gia của Đức Phật, các ngài đã đắc quả Thánh hoặc còn phàm, là mô phạm của quần sanh, là vô thượng phước điền của chư thiên và nhân loại. Chư Thánh hiền tăng là những vị Thánh đệ tử đã đắc đạo quả giải thoát, gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; còn các vị phàm tăng là những vị đang nỗ lực thực hành Giáo pháp để tiến tới đạo quả giải thoát trong ngày vị lai. Những vị ấy vừa là việc tu học cho bản thân mà cũng là thực hành hạnh nguyện sứ giả Như Lai, đem giáo pháp thuyết giảng cho những người có tâm cầu học đạo giải thoát. Vì thế, các ngài cũng xứng đáng được cung kính, cúng dường.

Cúng dường hương hoa đến Tam bảo, chúng ta nên chọn hoa tốt, chưng hoa đẹp để thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ ân đức Tam bảo. Rồi hoa đó sẽ úa tàn, cũng vậy thân người này cũng phải già, bệnh và chết. Đó chính là quy luật của thế gian, không ai tránh khỏi được. Chính Đức Phật đã thuyết như vậy. Pháp sanh lên do nhân/ Như Lai giảng nhân ấy/ Nhân diệt thời Pháp diệt/ Đại Sa-môn nói vậy .

Vạn vật đều vô thường, không có gì trường cửu. Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt. Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong, thân tâm của chúng ta cũng vậy. Vì thế, cúng dường hoa thơm cũng đừng dính mắc đến sắc và hương, hãy lấy đặc tính sớm nở tối tàn của hoa để khéo tác ý và tu tập. Bởi cứ bám chấp vào những thứ không có thật, chúng sanh mãi đau và khổ không thôi. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và nguyện tu mau chứng ngộ quả chân thường giải thoát.

Dẫu biết có thân đây là khổ, tuy nhiên, cũng chính do thân này, người trí sẽ biết tận dụng để tạo thêm nhiều thiện pháp và tu tập, còn kẻ mê thì mải chạy theo dòng đời, mà bản chất của nó vốn dĩ là vô thường, đi đến hủy diệt, vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả, và thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. Ví như một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi gom các thứ hoa dồn thành đống lớn, rồi từ đó kết thành nhiều tràng hoa khác nhau, cũng vậy nhờ thân sanh tử này mà chúng ta làm thêm nhiều việc phước.

Như từ một đống hoa

Nhiều tràng hoa được kết

Cũng vậy, thân sanh tử

Làm được nhiều thiện sự.

Trong các loại hương hoa, chúng chỉ bay thuận theo chiều gió chứ không thể bay ngược lại. Tuy vậy, có một loại hương thơm có thể bay xuôi, bay ngược và cả lên không trung thiên giới nữa, đó chính là hương thơm đức hạnh.

Như vậy, dâng hoa cúng dường Tam bảo chính là cơ hội để mình học từ hoa những bài học vô thường, hương thơm đức hạnh, khéo nói thì phải khéo làm… Từ việc dâng hoa cúng dường thường ngày, nếu khéo tác ý thì việc cúng dường ấy cũng trở thành một pháp tu thiết thực, mang đến an lạc cho hàng Phật tử.

Ý Nghĩa Dâng Cúng Hoa, Đèn, Hương

Dâng hoa cúng Phật mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày, theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật. Việc dâng hoa cúng Phật là một hành động thành kính ngưỡng mộ, bày tỏ tâm biết ơn sự chuyển hóa vô thượng của giáo pháp, mặc dù giá trị vật chất không đáng quan tâm. Tiếp theo việc dâng hoa cúng Phật là lời tán tụng và tâm người Phật tử hồi tưởng lại đời sống cao thượng, phẩm hạnh vi diệu của đức Phật, quyết cố gắng noi theo, không cầu khẩn van xin gì cả. Đức Phật là một bậc sáng suốt, đã chấm dứt sự phiền não và khổ đau, một đấng hoàn hảo, chứng được trí tuệ bát nhã và giác ngộ chân lý vô thượng, đáng được tôn kính và đảnh lễ. Người Phật tử quyết tâm noi theo chánh đạo, đưa đến chánh kiến và chánh tín, để hiện tại đạt an lạc hạnh phúc, mai sau được giác ngộ giải thoát. Ý Nghĩa Lễ Cúng Đèn Trong hình thức nghi lễ, khi cúng dường một ngọn đèn lên đức Phật, không nên nghĩ hay cho rằng mình đang làm một ân huệ và cầu khẩn van xin phước báo. Trái lại, nên ý thức một cách trọn vẹn rằng: chúng ta đang nâng cao nguồn sáng trí tuệ, mà chúng ta tiếp nhận từ đức Phật. Nguồn ánh sáng này xua đuổi bóng đêm trong tâm thức chúng ta, hướng dẫn chúng ta và tất cả chúng sinh tìm thấy con đường đi đến giác ngộ. Theo cách này, đối với người thực hiện nghi lễ, ngọn đèn cúng dường lên đức Phật là phương tiện để quán niệm về cái ánh sáng giác ngộ đã và đang chiếu sáng trong mỗi người chúng ta từ thời vô thủy, và ánh sáng đó thường bị những bức tường do tự ngã che khuất trong bóng tối. Mục đích của sự tu tập chính là để dẹp trừ cái bản ngã đó. Ý Nghĩa Dâng Hương Cúng Phật Theo kinh sách, khi làm lễ dâng hương cúng Phật có 5 ý nghĩa, gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có:

Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích trong Kinh Pháp Bảo Đàn như sau: 1. GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự tâm chẳng quấy, chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân, chẳng cướp hại, gọi là GIỚI HƯƠNG. 2. ÐỊNH HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn, gọi là ÐỊNH HƯƠNG. 3. TUỆ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ chiếu soi tự tánh, chẳng tạo điều ác, dù tu nhiều thiện mà tâm chẳng chấp trước, kính trên mến dưới, thương xót kẻ cô đơn nghèo nàn, gọi là TUỆ HƯƠNG. 4. GIẢI THOÁT HƯƠNG: Tự tâm chẳng phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG. 5. GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG: Tự tâm đã chẳng phan duyên thiện ác, chớ nên trầm không trệ tịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận tự bản tâm, thông đạt lý Phật, hạ mình để tiếp người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến Bồ đề, chơn tánh chẳng đổi, gọi là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG. Thiện tri thức! Năm thứ hương này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ tìm bên ngoài. Dâng cúng Phật

cúng dường pháplà hơn hết. Ý Nghĩa: Đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát khởi tín tâm, tin tưởng sâu sắc, hiểu biết rõ ràng, thành tâm dâng cúng: những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhứt, trên bước đường tu học (học hỏi chánh pháp và tu sửa thân tâm). Không tu tập và không làm như thế, dù thành tâm đến đâu, dâng hương cầu nguyện nào có được gì? Tại sao vậy? – Bởi cầu khẩn van xin mà được như ý, người ta đền ơn đáp lễ, đốt hương cả bó, cháy luôn ngôi chùa! Dâng cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, những hương thơm kết tụ do việc luôn giữ tâm thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát sự hiểu biết phiền lụy của thế gian. Tóm lại dâng hương cúng Phật gồm có: 1. Giới hương 2. Định hương 3. Tuệ hương 4. Giải thoát hương và 5. Giải thoát tri kiến hương.