Top 9 # Xem Nhiều Nhất Khoa Cúng Phát Tấu Chữ Hán Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Herodota.com

Phong Thủy Việt: Đồ Cúng Lễ Trong Khoa Phát Tấu

Cách làm Thang trong đàn Phát Tấu

Bạch Đàn : 1 chỉ Quế Quan: 1 chỉ Xuyên Khung: 1 chỉ Mật ong: 3 muống cà phê. Đậu xanh: 100g (đãi vỏ) Đinh hương: 5 nụ. Sinh khương (gừng tươi) 5 lát.

Cách chế biến: Mấy vị trên nấu kỹ, sau đó lấy nước cho đậu xanh vào nấu nhừ, trước lúc tắt bếp thì cho mật ong, và một thìa đường vào.

những vị trên chế vào 5 cái thố nhỏ có nắp đậy.

Cái này gọi là thang. Thang là cúng trong đàn phát tấu, tức là cúng cho 5 ông sứ giả mang văn điệp đi thỉnh chư vị thánh thần xuống đàn làm việc. Ngày nay, việc làm thang hầu như không được làm nữa, người ta cúng 5 ly nước trắng.

Lễ cúng phát tấu.

Sứ giả thuộc thàng thần tướng nên phải cúng đồ mặn. Người đời hiện nay làm cho no con mắt nên làm cỗ bàn rượu thịt rườm rà. Theo cổ, thì việc mời mọc này phải đi nhanh về chóng chứ không ngả cỗ ra đánh chén. Vì vậy là phải làm cỗ đơn giản: chỉ gồm 5 nắm cơm, 5 quả trứng gà luộc, 5 nhúm muối gạo, 5 bàu nước và 5 ly rượu nhỏ là được. Sau đàn cúng có một khoa cúng nữa là khoa tạ quá: Khoa này là mời chư vị phật thánh hồi cung, cũng là tạ lễ 5 ông sứ giả, lúc này thường cúng 1 cây vàng hoa ngũ sắc, 1 con gà trống luộc, 1 đĩa xôi to, 1 nậm rượu thơm, đây chính là phần cảm tạ cho 5 viên sứ giả này.

Đồ mã cúng phát tấu:

Quan trọng trong đồ cúng phát tấu là phải có cầu phát tấu làm bằng vải đỏ, dài chừng 5 thước. 5 bộ mũ áo ngựa. khoảng 10 bộ thập vật: Thanh sư, bạch tượng, long xa, kiệu phượng, tràng phan, bảo cái, … đây là những phương tiện để đón rước chư thánh. Lại có một mâm sứ giả (hay còn gọi là mâm phát tấu) là nhưng vật dụng khi các sứ giả dừng ở trạm nào thì lấy dùng gồm: sách, bút, mực, xà bông, kem đánh răng, chỉ, kim, khăn mặt, thuốc lá, trà hương, chậu, diêm, … tùy từng nhà sắm theo điều kiện. Mâm phát tấu này sẽ được chia cho các thầy cúng.

Đồ cúng lễ trong Khoa phát tấu

Chữ Nôm Là Gì? Sự Khác Nhau Giữa Chữ Hán Và Chữ Nôm ⇒By Tiếng Trung Chinese

Chữ Nôm (字喃), còn gọi là Quốc âm (chữ Hán: 國音), là một hệ chữ ngữ tố từng được dùng để viết tiếng Việt, gồm các từ Hán-Việt và các từ vựng khác. Nó bao gồm bộ chữ Hán tiêu chuẩn và các chữ khác được tạo ra dựa theo quy tắc.

Chữ Nôm là gì? Định nghĩa

Cả hai từ “Chữ” và “Nôm” trong chữ Nôm đều là từ Hán Việt cổ. Từ chữ bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của chữ “tự” 字 (có nghĩa là chữ).

Từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ của chữ “nam” 南 (có nghĩa là phía nam). Ý của tên gọi chữ Nôm là đây là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam (tức người Việt, xưa kia người Việt tự xem mình là người phương Nam, còn người Trung Quốc là người phương Bắc).

Tên gọi chữ Nôm khi viết bằng chữ Nôm có thể viết bằng rất nhiều cách khác nhau:

字喃,(⿰字宁)喃,(⿰字守)喃,喃,茡喃,芓喃,(⿰字文)喃,喃,佇喃,宁喃 字諵,(⿰字宁)諵(⿰字守)諵,諵,茡諵,芓諵,(⿰字文)諵,諵,佇諵,宁諵

Vậy còn Chữ Nho là gì?

Danh từ chữ Nho được dùng để chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt Nam.

Các quan điểm về sự hình thành của chữ Hán Nôm

Cách cấu tạo chữ Nôm có thể đã manh nha ló dạng từ những năm đầu khi người Hán chinh phục đất Giao Chỉ (Miền Bắc Việt Nam) và đặt nền đô hộ trên các bộ lạc người Việt vào đầu Công Nguyên.

Vì ngôn ngữ khác biệt, những “chữ Nôm” đầu tiên xuất hiện vì nhu cầu ghi địa danh, tên người hoặc những khái niệm không có trong Hán văn. Song chứng cứ còn lưu lại hết sức ít ỏi, khó kiểm chứng được một cách chính xác.

Phạm Huy Hổ trong “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?” thì cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San lại cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2.

Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái” trong danh xưng “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ thứ 8.

Ý kiến khác lại dựa vào chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt” (大瞿越) để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng.

Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9.

Và nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi cố định cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự) và chỉ có thể ra đời sau khoảng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938.

Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý thì mới có một số chữ Nôm như trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (tạc năm 1173 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 11) hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng (nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông).

Trước tác thì phải sang thời nhà Trần mới có dấu tích rõ ràng. Hàn Thuyên là người có công lớn phát triển thơ Nôm thời kỳ này với việc mở đầu thể Hàn luật.

Sự hình thành và Phát triển của chữ Hán Nôm

Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ (mượn âm để chép tiếng Quốc âm). Phép đó gọi là chữ “giả tá”.

Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn.

Phép này gọi là “hài thanh” để cấu tạo chữ mới. Kể từ thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm.

Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng: từ Hàn luật (thơ Nôm (tiếng Việt) theo luật Đường), đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo.

Thi ca chữ Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt.

Chữ Hán Nôm Trước thế kỷ 15

Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài văn bia.

Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan trọng là tập Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, dịch Nôm là Phật nói cả trả ơn áng ná cực nặng đã ra đời vào thời nhà Lý khoảng thế kỷ 12. Đây cũng là đặc điểm vì tập này là văn xuôi, một thể văn ít khi dùng chữ Nôm.

Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông: “Cư trần lạc đạo phú” (居塵樂道賦) và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” (得趣林泉成道歌).[9][10]

Chữ Hán Nôm Thế kỷ 15 -17

Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt.

Một số là trước tác cảm hứng riêng như:

Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)

Hồng Đức quốc âm thi tập (Lê Thánh Tông)

Bạch Vân am thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Ngự đề hoà danh bách vịnh (Chúa Trịnh Căn)

Tứ thời khúc vịnh (Hoàng Sĩ Khải)

Ngọa long cương (Đào Duy Từ)

nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo dạng sử ký như: Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục.

Thơ lục bát cũng xuất hiện với tác phẩm “Cảm tác” của Nguyễn Hy Quang, được sáng tác năm 1674.

Thế kỷ 17 cũng chứng kiến sự xuất hiện nhưng đã sớm nở rộ của văn học Nôm Công giáo, với những tác giả tên tuổi như nhà truyền giáo Girolamo Maiorica (chủ trì biên soạn hơn 45 tác phẩm nhiều thể loại), thầy giảng Gioan Thanh Minh (viết tiểu sử các danh nhân và thánh nhân), thầy giảng Lữ-y Đoan (viết Sấm truyền ca, truyện thơ lục bát phỏng tác từ Ngũ Thư).

Chữ Hán Nôm Thế kỷ 18 – 19

Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan.

Ngược lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân Công chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài thời trước.

Riêng Chinh phụ ngâm được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.

Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc, lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ biến nhất là truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).

Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém sâu sắc và khéo léo.

Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như:

tất cả được phổ biến rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là Truyện Kiều.

Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802.

Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương v.v.

Những thể cũ song thất lục bát và lục bát (các truyện Nôm) vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như Kim Thạch kỳ duyên, Chàng Lía (Văn Doan diễn ca), Quan Âm Thị Kính.

Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có Đại Nam quốc sử diễn ca (thời Nguyễn).

Đặc biệt là cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm Đại Nam Quốc ngữ do Văn Đa Nguyễn Văn San soạn năm Tự Đức thứ 30 (1877).Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì nhất thể đều bằng chữ Hán.

Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ (thế kỷ 15) và nhà Tây Sơn (thế kỷ 18).

Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt.

Sự Suy giảm của chữ Hán Nôm

Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút.

Kỳ thi Hương cuối cùng tại Nam Kỳ được tổ chức vào năm 1864, tại Bắc Kỳ là năm 1915, tại Trung Kỳ là năm 1918 và kỳ thi Hội sau cùng được tổ chức vào năm 1919.

Trong chừng mực nào đó, chữ Hán vẫn tiếp tục được dạy trong thời Pháp thuộc. Học chính Tổng quy (Règlement général de l’Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut ban hành năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp (lớp nhì và lớp nhất) ít nhất 12 giờ.

Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn (gồm Hán tự và Quốc ngữ) dạy 3 giờ trong khi Pháp văn và lịch sử Pháp dạy 12 giờ.

Bên cạnh bộ Quốc-văn giáo-khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ Hán-văn tân giáo-khoa thư xuất bản lần đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi biên soạn, đều được dùng rộng rãi cho tới trước năm 1949.

Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dừng việc dạy chữ Hán trong nhà trường kể từ năm 1950. Còn tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp….? Sau tái thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán.

Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là hai hệ chữ dùng để viết tiếng Việt, chúng có vai trò khác nhau trong dòng lịch sử và văn hóa.

Chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và suốt một thời gian dài tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Công giáo.

Tuy nhiên, trái với nhiều người lầm tưởng, trong thời kỳ này, lượng văn thư Kitô giáo chữ Nôm vượt xa chữ Quốc ngữ, và sách chữ Nôm vẫn được người Công giáo sử dụng cho đến giữa thế kỷ 20.

Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán. Sự giảm sút của chữ Hán cũng dẫn đến sự suy giảm của chữ Nôm.

Về văn tự thay thế để viết tiếng Việt, họ bất đắc dĩ phải chấp nhận sự hiện hữu của chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chế tạo.

Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ.

Ngày nay, tiếng Việt hầu như được viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, trong khi đó chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, có thể đọc viết được chữ Nôm.

Một số người cho rằng chữ Quốc ngữ đã làm lu mờ vị thế của chữ Nôm nhưng một số khác thì nhấn mạnh rằng về mặt kỹ thuật, hai hệ chữ này không loại trừ nhau, nghĩa là, người ta vẫn có thể biết chữ Quốc ngữ đồng thời học chữ Nôm vì điều này không ai ngăn cấm cả.

Những cách tạo chữ Nôm

Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán

Mượn cả âm đọc (âm Hán Việt) và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba loại là:

Âm Hán Việt tiêu chuẩn: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ: “ông” 翁, “bà” 婆, “thuận lợi” 順利, “công thành danh toại” 功成名遂.

Âm Hán Việt cổ: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ: “mùa” 務 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là”vụ”), “bay” 飛 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phi”), “buồng” 房 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phòng”).

Âm Hán Việt Việt hoá: là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ: “thêm” 添 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “thiêm”), “nhà” 家 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “gia”), “khăn” 巾 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “cân”), “ghế” 几 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”).

Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm.

Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa

Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi.

Ví dụ: Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn:

chữ “một” 沒 có nghĩa là “chìm” được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình”,

chữ “tốt” 卒 có nghĩa là “binh lính” được mượn dùng để ghi từ “tốt” trong “tốt xấu”,

chữ “xương” 昌 có nghĩa là “hưng thịnh” được mượn dùng để ghi từ “xương” trong “xương thịt”,

chữ “qua” 戈 là tên gọi của một loại binh khí được mượn dùng để ghi từ “qua” trong “hôm qua”.

Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn:

“gió” 這 (mượn âm “giá”),

“cửa” 舉 (mượn âm “cử”),

“đêm” 店 (mượn âm “điếm”),

“chạy” 豸 (mượn âm “trãi”).

Đọc giống như âm Hán Việt cổ:

chữ “keo” 膠 (“keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao”) được dùng để ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt”,

chữ “búa” 斧 (“búa” trong “cái búa”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ”) được dùng để ghi lại từ “búa” trong “chợ búa” (“búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪).

Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm

Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt.

Ví dụ:

chữ “dịch” 腋 có nghĩa nghĩa là “nách” được dùng để ghi lại từ “nách” trong “hôi nách”,

chữ “năng” 能 có nghĩa là “có tài, có năng lực” được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”.

Tạo chữ ghép Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ.

Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép) hoặc nghĩa phù (bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép) hoặc vừa là thành phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi.

Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép.

Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ “khẩu” 口 (đặt ở bên trái chữ ghép), dấu “cá” 亇 (bắt nguồn từ chữ “cá” 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép), dấu nháy “?” (đặt ở bên phải chữ ghép), bộ “tư” 厶 (đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép), dấu “冫” (đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam).

“chân” 蹎 (“chân” trong “chân tay”): chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là “chân” được dùng làm “nghĩa phù” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.

Trong chữ ghép chữ “túc” 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là “bàng chữ túc” ⻊. Chữ “chân” 真 (“chân” trong “chân thành”) đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép.

“gạch” ? (“gạch” trong “gạch ngói”): chữ này được cấu thành từ chữ “thạch” 石 và chữ “ngạch” 額. “Thạch” 石 có nghĩa là “đá” được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. “Ngạch” 額 dùng làm thanh phù.

“khói” : chữ này được cấu thành từ chữ “hỏa” 火 và chữ “khối” 塊 bị tỉnh lược một phần (tỉnh lược bộ “thổ” 土 ở bên trái chữ “khối” 塊). “Hỏa” 火 có nghĩa là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép (lửa cháy tạo ra khói), “khối” 塊 gợi âm đọc của chữ ghép.

“ra” : chữ này được cấu thành từ chữ “la” 羅 giản hóa và chữ “xuất” 出. “Xuất” 出 có nghĩa là “ra” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.

“trời” : chữ này được cấu thành từ chữ “thiên” 天 có nghĩa là “trời” và chữ “thượng” 上 có nghĩa là “trên”, ý là “trời” thì nằm ở trên cao.

“lử” : (“lử” trong “mệt lử”) gồm chữ “vô” 無 có nghĩa là “không có” và chữ “lực” 力 có nghĩa là “sức, sức lực”, ý là “lử” là không còn sức lực gì nữa.

Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:

– “blăng” : “Blăng” hiện nay đã biến đổi thành “trăng, giăng”. Chữ “blăng” ? được cấu thành từ chữ “ba” 巴, chữ “lăng” 夌 và chữ “nguyệt” 月. “Ba” 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất “b” của phụ âm kép “bl”, “lăng” 夌 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần của từ “blăng”, “nguyệt” 月 có nghĩa là “mặt trăng” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này.

– “mlời” : “Mlời” hiện nay đã biến đổi thành “lời, nhời” (“lời” trong “lời nói”). Chữ “mlời” ? được cấu thành từ chữ “ma” 麻 (bị tỉnh lược thành “亠”) và chữ “lệ” 例. “Ma” 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất

– “m” của phụ âm kép “ml”, “lệ” 例 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần cửa từ “mlời”.

– “tlòn” : “ Tlòn” hiện nay đã biến đổi thành “tròn”. Chữ này được cấu thành từ chữ “viên” 圓 (bị tỉnh lược bộ “vi” 囗 ở phía ngoài thành “員”) và chữ “lôn” 侖. “Viên” 圓 có nghĩa là “tròn” được dùng làm nghĩa phù. “Lôn” 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “tl” và phần vần của từ “tlòn”.

– “krông” 滝: “Krông” hiện nay đã biến đổi thành “sông”. Chữ này được cấu thành từ bộ “thủy” 水 và chữ “long” 竜. “Thủy” có nghĩa là “sông” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “Long” 竜 biểu thị phụ âm thứ hai “r” của phụ âm kép “kr” và phần vần của từ “krông”.

– “sláu” : “sláu” hiện nay đã biến đổi thành “sáu”. Chữ này được cấu thành từ chữ “lão” và chữ “lục”. “Lục” 六 là nghĩa phù, có nghĩa là “sáu”. “Lão” 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “sl” và phần vần của từ “sláu”.

Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi.

Ví dụ:

– chữ “ấy” : lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” (chữ 衣 có hai âm đọc là “y” và “ý”) mà cần đọc chệch đi.– “khệnh khạng” : chữ “khệnh ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khạng” ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét mác “㇔”.– “khề khà”: chữ “khề” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét mác “㇔”.

Mượn âm của chữ Nôm có sẵn

Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi.

Ví dụ:

Đọc giống với âm đọc của chữ được mượn: chữ “chín” ? (“chín” trong “chín người mười ý”) được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu chín”.

Đọc chệch âm: chữ “đá” ? (“đá” trong “hòn đá”) được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”.

Nhược điểm của chữ Hán Nôm

Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó học, khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ.

Để đọc viết được chữ Nôm đòi hỏi phải có vốn hiểu biết chữ Hán nhất định. Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất: có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau.

Tình trạng này còn do “tam sao thất bản”, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét). Do đó có người nói “chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán”, “nôm na là cha mách qué”.

Về mặt ngữ học thì do âm trong tiếng Việt nhiều hơn số âm trong tiếng Hán (tiếng Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có khoảng 1280 âm) nên người viết phải dùng dấu nháy [“] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm.

Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm rất khó đọc.

Chữ Nôm của các dân tộc khác

Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao, Ngạn,… cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ.[19]

Chữ Nôm Tày Chữ Nôm Dao Chữ Nôm Ngạn Người Ngạn, một nhóm cư dân ở tỉnh Cao Bằng tự nhận thuộc dân tộc Tày nhưng về mặt ngôn ngữ thì gần với người Giáy, từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài mo (khấn cúng).

“Chữ nôm” của các nước khác

Do 喃 nôm = 口 khẩu + 南 nam nên chữ “喃 nôm” trong tên gọi “chữ Nôm” thường được hiểu với ý nghĩa là “ngôn ngữ của người Nam”.

Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm “chữ nôm” ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là “chữ nôm Nhật”, “chữ nôm Triều”, hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc như Tráng, Đồng, v.v. là “chữ nôm Choang”, “chữ nôm Đồng”, v.v.

Kokuji (国字 Quốc tự) trong hệ thống Kanji của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật.

Ví dụ: 畑 hatake = 火 hoả + 田 điền, nghĩa là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 sake = 魚 ngư + 圭 khuê, nghĩa là cá hồi Nhật Bản; 瓩 kiloguramu = 瓦 ngoã + 千 thiên, nghĩa là kílô-gam.

Trong hệ thống Kanji hiện đại, cũng có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo kiểu của người Nhật.

Ví dụ:

円 là giản thể của 圓 viên; 売 là giản thể của 賣 mại.

Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong hệ thống Hanja của họ. Ví dụ: 畓 dap = 水 thuỷ + 田 điền, nghĩa là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 bu = 功 công + 夫 phu, nghĩa là người lao động. Chữ Choang vuông Sawndip của người Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống chữ viết này.

Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là giả tá, hình-thanh và hội ý, còn có những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là tượng hình và chỉ sự Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những “chữ nôm” này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại.

Các phần mềm viết chữ Hán Nôm

Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm bằng cách gõ chữ Quốc ngữ.

HanNomIME là phần mềm chạy trên Windows hỗ trợ cả chữ Hán và chữ nôm.Vietnamese Keyboard Set hỗ trợ gõ chữ Nôm và chữ Hán trên Mac OS X.WinVNKey là bộ gõ đa ngôn ngữ trên Windows hỗ trợ gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng âm Quốc ngữ.Weasel Hannom là bộ gõ của Ủy ban phục sinh Hán Nôm được xây dựng trên cơ sở bộ gõ Weasel. Phông chữ Nôm nằm trong cơ sở dữ liệu Unihan. VietUnicode là phông Unicode chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên SourceForge. Phông TrueType có thể tải về từ.

Một số từ điển chữ Nôm trên mạng Internet có Từ điển ở Viện Việt học (tiếng Việt) Nom character index (Tiếng Anh).

Trích nguồn: vi.wikipedia.org

Sự Khác Nhau Giữa Bài Vấn Khấn Bằng Chữ Hán Và Chữ Nôm

Cúng giỗ được chia thành dịp trong năm, có thể là giỗ thường, giỗ gia tiên … Nhiều người cúng gia tiên bằng bài văn khấn chữ Hán, nhiều người lại cúng bằng chữ Nôm. Vì thế nên có các bài văn khấn khác nhau. Cùng tìm hiểu sự khác nhau giữa bài vấn khấn bằng chữ Hán và chữ Nôm

Các bài cúng giỗ trong năm

Một năm trong gia đình bạn có thể có nhiều đám giỗ khác nhau. Chính vì thế mà các bài cúng giỗ cũng được chia khác nhau, tùy theo từng mục đích cúng giỗ mà các lễ vật và cách cúng cũng khác. Dưới đây, chúng ta cùng xem một vài những bài cúng trong các bài cúng giỗ.

Bài văn cúng giỗ đầu : Hay còn được gọi là giỗ tiểu tường. Là ngày giỗ năm đầu tiên của người đã khuất. Vì thế ngày giỗ đầu thường được làm rất chu đáo, trang nghiêm và thường bi ai.

Cúng ngày giỗ thường : Hay còn được gọi tên là Cát Kỵ là ngày giỗ của người đã mất hàng năm được tính từ năm thứ 3 trở đi. Thông thường chỉ làm giỗ trong thời gian là 5 năm sau đó thì gửi vào nhà thờ họ để thờ chung vào những dịp lễ tết và rằm tháng giêng.

Văn khấn gia tiên ngày giỗ bằng chữ Nôm

Con lạy chín phương trơi, mười phương trư phật, trư phật mười phương

Con lạy Hoàng Thiên hậu Thổ chư vị Tôn Thần

Con lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân

Con lạy các ngài Thần linh, Thổ đia cai quản đất này.

Hôm nay là ngày tháng năm (âm lịch)

Ngày trước giỗ tiên thường của:

Chúng con cùng toàn thể gia quyến tuân theo nghi lễ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả đốt nén tâm hương, trước án tọa Tôn thần cùng các trư vị uy linh, kính cẩn tâu trình.

Chúng con mời các vị Bản gia Thổ công, Táo quan, Long Mạch và các Thần Linh thiêng hiển hiện trước án, chứng giám cho tấm lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang vạn thái, vạn sự tốt lành.

Kính thỉnh các tiên linh, gia tiên chugns con và những vong hồn nội tộc được thờ phụng cùng về âm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.

Văn cúng giỗ bằng âm hán như thế nào

Để hiểu hơn về văn cúng giỗ bằng âm hán bạn có thể tìm hiểu bài khấn mẫu sau đây.

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Đệ … Thập … Niên, tuế thứ … nguyệt … nhật … tỉnh … huyện … xã … phường … thôn…

Trưởng nam: … Cùng thừa mẫu mệnh hiệp dữ chư thúc, dữ dồng bào đệ, tỷ, muội, nội, ngoại tử, tôn hôn, tề đẳng toàn gia kính bái.

Cần dĩ: … chi nghi, cung trấn bạc tề

Hiển: … tôn linh vi tiền, cảm kiền cáo vu

Kính kỵ: .. liệt vị chư tiên linh, cập phụ vị, thương vong đẳng lòng tự, đồng lai hâm hưởng.

Kính cáo: Bản gia đông trù mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên thánh, tiên sư, bản viên thổ công, bản đường ngũ tự gia thần, mặc thùy chiều giám, đồng lai giám cánh, tích chi hanh cát.

Bài văn khấn bằng chữ Nôm được nhiều người sử dụng do dễ đọc, dễ khấn còn đối với bài văn khấn bằng chữ Hán dành riêng cho những người thầy cúng. Hi vọng qua bài viết này các bạn đã hiểu được sự khác nhau giữa bài vấn khấn chứ Hán và chữ Nôm. Cảm ơn các bạn đã theo dõi

Mẫu Sớ Cầu Siêu Độ Gia Tiên, Chữ Hán

1. Sớ cầu siêu dùng để làm gì

Cầu siêu với ý nghĩa cầu là cầu mong, siêu là siêu thoát, vượt qua. Sớ cầu siêu được sử dụng để cầu nguyện cho vong linh của người đã chế được siêu thoát khỏi cảnh giới khổ đau. Ý nghĩa của lễ cầu siêu cho vong linh của người chết còn phù thuộc vào từng phong tục, tính ngưỡng ở nhiều nơi khác nhau, và về mục đích của người cầu nguyện. Theo quan niệm của Phật tâm linh, kết quả và ý chí của việc sử dụng sớ cầu siêu, và nghi lễ cầu siêu sẽ phụ ý thức siêu độ, nhận thức về ý nghĩa sống, chết sẽ giúp bản thân mỗi người cầu nguyện sẽ hiểu thêm về cầu siêu.

Sớ cầu siêu và nghi lễ cầu siêu phải tỏ được lòng thánh kính, người làm lễ cầu siêu phải có lòng chân thành, biết rung cảm trước những khổ cực cửa người đã qua đời. Thông qua nghi lễ cầu siêu Phật đã gieo tiếng chuông giao cảm vào tâm nguyện của bản thân mỗi con người.

Dưới đây là nội dung mẫu sớ cầu siêu mời bạn đọc cùng tham khảo:

Mẫu sớ cầu siêu

Một mùa lễ vu lang báo hiếu nữa chuẩn bị về, ai đã từng đọc kinh Vu Lan sẽ thấy được giọt nước mắt của ngài Mục Kiều Liên đã khó thương mẹ như thế nào, tỏ lòng thành kính sâu sắc đến đức Phật để dạy pháp cứu độ. Giọt nước mắt ấy chính là tình cảm xuất phát từ tâm của mỗi con người, tâm từ bi, đó là tình thương và lòng thương cảm. Thông qua văn sớ cầu siêu sẽ giúp cho người còn sống nhận thức đúng giá trị cuộc sống, giúp cho người qua đời được cầu siêu, thể hiện mối quan tương quan giữa người sống và người chết. Làm siêu độ cho chúng sinh chính là thể hiện đạo lý báo ân.

Sớ cầu siêu cần phải tỏ được lòng thành kính, thấy được những điều mong mỏi mà người qua đời mong muốn, và đời sống của người sau khi chết ra sao bạn đọc nên tìm hiểu thêm nhiều kinh điển Đại từ như kinh Vu Lan, kinh Địa tạng, kinh Lương hoàng Sám… tất cả các mẫu kinh này cũng đã được Tải Miễn Phí cập nhật trên hệ thống, bạn đọc cùng tham khảo để hiểu hơn về đời sống tâm linh nhé.

2. Nội dung Văn cầu siêu

“OM AH HUNG Xin nhờ lửa làm tan chảy không còn sót những món diệu dục đơn giản nhưng quí giá này hóa một đám mây vô tận trong không gian thành một tiệc cúng dường không chấp trước, xin cho con dâng cúng lên chín phương Trời mười Phương Phật chư Phật mười phương.

Hôm nay là ngày… tháng… năm… Tín chủ con là… ở tại số nhà… thành kính dâng lên cúng dường Chư Phật mong Chư Phật ban phước cho toàn thể chúng sinh không chừa sót một ai những điều an lành nhất. Con cũng xin nhờ vào tiệc cúng dường này, ánh sáng từ bi và trí tuệ của Chư phật sẽ hiện hữu trong tâm con và tất cả mọi người đồng thời chiếu sáng tất thảy các cõi khác để tất thảy hướng về Phật Pháp. Con nguyện với lòng thành tâm của mình trước Chư Phật xin được sám hối mọi lỗi lầm do thân khẩu ý con đã phạm phải từ trước tới nay.

Con xin cúng dường tới các chư thiên, thiện thần, hộ pháp mong các ngài che chở cho con cùng gia đình luôn an lành, thoát khỏi mọi thế lực xấu và ác của cõi dương và cõi âm.

Con cũng xin được nhờ vào lễ hỏa cúng này, hồi hướng cầu siêu cho tất cả các chúng sinh không chừa sót một ai đang lang thang trong cõi thân trung ấm hay cõi âm để họ bớt sợ hãi, đau khổ và nhanh chóng được chuyển nghiệp. Con cầu xin được cầu siêu cho cửu huyền thất tổ gia tiên gia tộc họ… cho cha…, mẹ… hay…. được hoan hỉ và sớm siêu thoát về nơi cực lạc hay cõi an lành khác”.

“Đặc biệt con xin được thành tâm sám hối cho nghiệp sát con phạm phải đối với các hài nhi đã từng kết duyên cùng con mà con chối bỏ. Cầu mong các hài nhi tha thứ và xóa bỏ mọi tâm tư oán hờn gây chướng ngại tới con, cầu mong các vong nhi buông bỏ và sớm chuyển đầu thai vào các cõi an lành mới. Cầu mong tất cả các vong nhi khác cũng đều hoan hỉ và siêu thoát như vậy.

Con nguyện sẽ gắng làm những điều thiện để hồi hướng, trợ duyên cho các vong nhi sớm được siêu thoát …. Cầu mong cho lời nguyện lành của con được thành sự thật. Nếu đã tu thì đọc mật chú, nếu không biết thì đọc thần chú sáu âm của Bồ tát Quán Thế Âm “OM MA NI PADE ME HUM” 108 lần.

Lễ hỏa cúng đến đây là kết thúc, xin được mời các ngài và các chư vị an tọa về nơi trụ xứ của mình và chỉ trở lại khi gia chủ có lời thỉnh mời. Xin các vong hãy hoan hỷ đón nhận tấm lòng thành của gia chủ mà sớm được siêu thoát”. Cũng xin che chở cho gia chủ mọi sự được tốt đẹp an lành. Gia chủ xin cảm tạ.

3. Lưu ý khi viết cầu siêu

Khi viết bài vị, quý vị cần phải có tâm cung kính vì đây là Huệ mạng của mỗi một Vong linh. Trước khi viết Bài vị ta nên niệm Phật 10 lần, mỗi lần 10 câu. Quán tưởng Vong linh được mời sẽ về tham dự và được lợi ích lớn trong Pháp hội. Mỗi một ô nhỏ chỉ ghi một danh tên, không được ghi chung 2 hay 3 danh tên. Nếu quý vị muốn in ra tại nhà và đem tới Pháp hội thì bài vị in hay viết ra nên để phẳng phiu, không nên gấp hay cuộn lại, cho vào phong bì khổ A4 để nơi sạch sẽ và tôn kính. Bài vị Cầu Siêu bằng giấy mầu vàng, bài vị Cầu An bằng giấy màu đỏ vì đây là theo quy định của Tịnh Tông Học Hội.

4. Tài liệu liên quan

Cùng với mẫu sớ cầu siêu, bài cúng rằm tháng 7 cũng là một mẫu văn khấn quan trọng được sử dụng trong ngày rằm tháng 7 hằng năm. Rằm tháng 7 hay còn gọi là ngày lễ Vu Lang và xóa tội vong nhân, để chuẩn bị cho ngày lễ quan trọng này bên cạnh bài cúng rằm tháng 7 các gia đình sẽ chuẩn bị lễ vật cho nghi thức cúng như hoa quả, xôi, thịt, vàng mã….

Bên cạnh mẫu sớ cầu siêu thì cùng không thể thiếu mẫu sớ cầu an được, với mẫu sớ cầu an và văn cầu an, bạn và gia đình sẽ được bảo vệ, luôn gặp may mắn, an lành trong cuộc sống