Top 7 # Xem Nhiều Nhất Văn Cúng Chúng Sinh Của Nguyễn Du Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Herodota.com

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Của Nguyễn Du

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (cũng gọi với tên khác là Văn Chiêu Hồn) là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả…

Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học, có thể chia bài văn thành bốn phần:

Phần một (20 câu): Tả cảnh một chiều thu tháng bảy mưa dầm buồn bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu…

Phần hai (116 câu): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của mười loại Cô Hồn.

Phần ba (20 câu): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các Cô Hồn.

Phần cuối (28 câu): Lời cầu xin phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các Cô Hồn tới nhận phần lễ cúng để siêu độ.

Xuất xứ tác phẩm:

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong bản văn do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương Tuần Báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn Chiêu Hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Không có tài liệu nào cho thấy Nguyễn Du diễn Nôm bài Văn Chiêu Hồn từ một tác phẩm của Phật Giáo…

Từ Điển Văn Học (NXB Thế Giới, 2004, tr. 1972) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895, của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn…

Một phần cảnh đời tác giả:

Trong phần giới thiệu Thơ Chữ Hán Nguyễn Du có đoạn:

Cuộc sống “mười năm gió bụi” từ 1786 đến 1795 của Nguyễn Du như thế nào, thì ông đã phản ảnh rõ trong Thanh Hiên Thi Tập. Suốt mười năm ấy, nay đầu sông, mai cuối bể, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, đau ốm liên miên, nghèo không tiền mua thuốc, nhiều lần muốn về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng ở đó nhà cũng không có, mà anh em thì mỗi người một ngả… Đến khi được trở về nhà (làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) thì ông đã là nhà nho mới hơn ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, bệnh tật, có lúc bệnh mấy tháng liền mà chỉ nằm chờ chết, trong nhà bếp lạnh tanh…

Cho đến khi ông ra làm quan với triều Nguyễn, gia phả chép: Dầu làm đến chức Á Khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một học trò nghèo. Trong Nam Trung Tạp Ngâm, ít ra cũng có hai bài thơ nói đến vợ con ăn đói, mặt xanh như lá rau… Tất cả những chi tiết đó giải thích tại sao Nguyễn Du thuộc tầng lớp trên mà trong thơ ca lại có một mối đồng tình thắm thiết với những người vốn thuộc tầng lớp thấp… Điều này thấy rất rõ trong bài Văn Tế chiêu hồn.

Nghe ngâm thơ bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”:

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…

Đường bạch dương bóng chiều man mác,Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết thaCõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,Có khôn thiêng phảng phất u minh…

Thương thay thập loại chúng sinhHồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựaHồn mồ côi lần lữa bấy niên…

Còn chi ai khá ai hènCòn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoátNước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ biGiải oan cứu khổ độ về Tây phương.

*

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnhChí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùngTưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lởKhôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thùMáu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơMà Cô Hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệNhững cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảyPhận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cườiMà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khóiHồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềmCàng năm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầyĐã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàng khôn đổi được mìnhLầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trướcBiết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô Hồn thất thểu dọc ngangNặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trậnĐổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùngPhơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạcBãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trờiNắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thétKhí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầuNào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phúMình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà không kẻ chí thânDẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủCủa phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròngThác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xómHòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêmNén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúyDẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhàVăn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắngVợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêngAnh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúcBãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô Hồn nhờ gửi tha phươngGió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòngĐem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bánĐòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trờiHồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa línhBỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nanDãi dầu nghìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rácPhận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơiTiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếpLiều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về giàAi chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền nãoThác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà,Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đấtDõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp ngườiSống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạcGửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thànhKiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm béLỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xaU ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suốiCũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dâyNgười trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quáiNgười thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôiCó người sa sẩy có người khốn thương.

*

Gặp phải lúc đi đường lỡ bướcCầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhauHồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụiHoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng câyHoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương Thần từ, Phật tựHoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng khôngHoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiếtRuột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi nămThở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩnTắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt giàCó khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.

*

Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh ĐộPhóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chuNão phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đạiChuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vươngLinh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnhTrong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào?Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnhCó chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòngTự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật GiáoCủa có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàngGiúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lạiCủa làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiêng biến ít thành nhiềuTrên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độChớ ngại rằng có có không không.

Nam-mô chư Phật, Pháp, TăngĐộ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Và Chủ Nghĩa Nhân Văn Của Nguyễn Du

Trở về hai trăm năm trước, để cùng sẻ chia và thấu hiểu nỗi đau đời của người xưa. Gió dập sóng dồi đâu chỉ ở Đoạn trường tân thanh. Tấm lòng thơ đâu chỉ dành cho một đôi người bất hạnh. Tình đời đâu chỉ dành cho dương thế. Nguyễn Du đã phải lặn ngụp giữa bể dâu, để chở che, cứu vớt bao nhiêu kiếp người mệnh bạc. Ông dành tình thương cả cho những oan hồn không chốn nương thân. Chủ nghĩa nhân văn mà ông suốt đời theo đuổi đã kết tinh thật xuất thần trong áng văn bất hủ: Văn tế thập loại chúng sinh.

Văn tế thập loại chúng sinh, còn gọi là Văn chiêu hồn, đã giúp hậu thế hiểu thêm tầm vĩ đại của tư tưởng Nguyễn Du. Tác phẩm mang màu sắc Phật giáo, lưu truyền trong những ngôi chùa cổ; hoà quyện cùng tiếng mõ, lời kinh. Thế mà, càng nghe, càng chiêm nghiệm, ta càng nhận ra âm vang, màu sắc của cõi đời. Trong tác phẩm, nhà thơ đâu hẳn nói về thế giới bên kia. Khóc người chết mà hóa ra thương người đang sống. Âm vang tác phẩm vượt khỏi xứ Phật, lan khắp cõi trần ai, thấm thật sâu vào buồng tim nhân ái của vạn triệu con người.

*          *         *

Trước hết, ta thử tìm hiểu những tiền đề góp phần tạo nên một Văn chiêu hồn bất hủ.

Có thể nói, nếu không ra đời giữa thời buổi “thay đổi sơn hà”, không cất lên từ tấm lòng thương người mênh mông của Nguyễn Du, chưa chắc Văn chiêu hồn có được sức sống và tầm vóc như hôm nay. Ta quay về thời đại Nguyễn Du. Nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, những mầm mống đầu tiên, cơ sở hình thành trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ở Việt Nam, bắt đầu nảy nở. Đó là sự xuất hiện những đô thị, khởi sự một nền kinh tế hàng hóa. Từ đó, manh nha hình thành tầng lớp thị dân. Tầng lớp này lớn lên nhờ điểm tựa ý thức hệ tư sản. Con người thời này bắt đầu nhận thức về “cái tôi”, “đốn ngộ” được tư cách cá nhân mình giữa xã hội, trong cuộc đời. Con người bắt đầu biết quý, biết coi trọng quyền sống cá nhân của mình. Bên cạnh đó, những cuộc khởi nghĩa nông dân lần lượt bùng nổ, thách thức và làm lung lay tường thành phong kiến. Chúng góp phần khơi thêm ngọn lửa đấu tranh đòi quyền sống, quyền bình đẳng cho con người. Sống và cảm nhận giữa lòng thời đại như thế, Nguyễn Du gởi cho người khúc ca não ruột: Văn chiêu hồn.

Và thêm nữa, tư tưởng nhân văn tiến bộ ấy lại được bùng phát từ khoảnh khắc thiêng của cảm hứng sáng tạo, bởi một tài năng xuất chúng, Văn chiêu hồn đã trở thành kiệt tác.

Thử lùi xa hơn, ta không quên, văn học Việt Nam từng có một Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của vua Lê Thánh Tông. Vị vua giàu đức nhân này nghĩ về những kiếp người, vì mệnh bạc phải ra cô hồn vất vưởng. Nhưng tác phẩm của ông, với lối văn biền ngẫu, qua bài kệ luật Đường, đã không len lỏi được, lan rộng tới quảng đại quần chúng. Lại nữa, tác phẩm ấy còn mang lời lẽ, khẩu khí của một ông vua, ngồi từ ngôi cao, mà khuyên răn bá tánh (giới), thành ra khó chan hòa cùng nước mắt sùi sụt của lê dân. Trong khi đó, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du lại tuôn chảy theo thể thơ song thất lục bát, thiết tha trầm bổng. Tác phẩm này mới thật sự là tiếng khóc (tế). Nguyễn Du viết về mười sáu loại người bất hạnh, trong tư cách một số phận đã, đang, rồi cũng phải chìm trong bể khổ. Viết Văn chiêu hồn, Nguyễn Du viết cho người mà thành ra như viết cho mình.

Gan ruột và nước mắt giãi bày cả ra, chính vì lẽ đó.

*          *         *

Trước khi tìm hiểu chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du trong Văn chiêu hồn, thiết nghĩ, ta nên hình dung đôi nét về chủ nghĩa nhân văn trong thời đại của ông.

Như đã nói, thời đại Nguyễn Du là buổi “thay đổi sơn hà”. Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa thời này xoay quanh hai bình diện: phê phán những thế lực phong kiến chà đạp con người; đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục của kiếp nhân sinh. Nó là sự kế thừa và nâng cao tinh thần nhân văn trong văn học cổ Việt Nam thời trước.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn, văn học cổ Việt Nam quan tâm sâu sắc đến những con người bình thường, phải chịu nhiều nhọc nhằn, bất hạnh, tai ương. Văn học gần gũi, cận kề con người trong cơn hoạn nạn. Không dừng lại suy nghĩ, triết lý về số phận, về đời người, văn học tìm phương cách cứu giúp con người bớt khổ. Văn học luôn đề cao lối ứng xử tình nghĩa, thủy chung, phải đạo, trong quan hệ giữa người với người. Ở đó, con người, theo tinh thần nhân văn, luôn chuộng lối sống khoan dung, chan hòa. Xã hội không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Ngược lại, nó luôn tìm cách hóa giải cách biệt giữa cá nhân và cộng đồng, tạo mối dây hài hòa giữa lương tâm và bổn phận. Con người, khi đó, thiên về đạo lý, đạo đức, chứ không theo bình diện triết học.

*          *         *

Đọc Văn tế thập loại chúng sinh, ta tìm thấy một hệ thống dẫn chứng, minh họa sống động cho những tư tưởng nhân văn này.

Với 184 câu thơ song thất lục bát, tác phẩm khởi hành từ cõi dương thế, trong bối cảnh đầu thu “mưa dầm sùi sụt” để nhìn về âm phủ. Não nùng trước bao khổ nạn, nhà thơ kêu gọi những linh hồn vất vưởng cùng về dự đàn giải thoát. Cảm xúc ngày càng thống thiết, Tố Như khóc thương cho hơn mười loại người bất hạnh “hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”. Cuối cùng, tác phẩm khép lại bằng lời khuyên các cô hồn nên thờ Phật giải oan cứu khổ.

Là một nhà nhân văn chủ nghĩa, Nguyễn Du luôn trải rộng lòng mình để hứng lấy, chở che những kiếp người bất hạnh. Ông đặc biệt quan tâm đến những con người bình thường trong xã hội. Ngoài sáu hạng người sống trong phú quý, tác phẩm dồn hết yêu thương cho những kiếp người vô danh, sống và chết trong lặng lẽ. Họ là những kẻ vào sông ra bể, đi về buôn bán, có người phải buôn nguyệt bán hoa, lại có kẻ mắc vào khóa lính. Đâu đó vất vưởng kiếp hành khất ngược xuôi… Cả một xã hội rộng lớn như được thu nhỏ, hiện lên toàn những gương mặt “cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời” (thơ Huy Cận). Thật hiếm ở đâu như bài văn tế này, nơi hội tụ toàn những cái chết bi thương. Viết Văn chiêu hồn, nhà thơ không đứng từ đài cao quý tộc để cúi xuống cất lời răn bảo. Ông đi từ sự đồng cảm, tri âm. Lòng trắc ẩn khiến ông khóc thương cho những oan hồn. Nói về họ, ông như đang đối thoại với người đang sống, với những số phận nhọc nhằn, tủi nhục suốt một kiếp phù sinh. Ngày nào, họ vẫn sống như bao cuộc đời bình thường. Bỗng đâu, tai nạn bất ngờ úp chụp. Họ đành chết một cách tức tửi, đớn đau.

Tinh thần nhân văn khiến nhà thơ ngậm ngùi, suy tưởng về cõi dương thế, nơi những người xấu số đã trải qua. Ông viết về cõi âm của những oan hồn, nhưng lại lấy cõi người, con người làm trọng. Mỗi dòng thơ của ông là một dòng nước mắt, khóc cho nỗi nhọc nhằn, cơ cực của đời người. Đây là nỗi khổ của người đi về mua bán:

“Đòn gánh tre chín dạn hai vai”

Chỉ một chiếc đòn gánh tre mà gợi ra bao nẻo đường vạn dặm, bao chặng đời tảo tần, gồng gánh của kẻ xuôi ngược tìm manh áo miếng cơm. Nguyễn Du như đang viết về phần gánh nặng đang hằn trên bờ vai gầy guộc của chính mình. Nhà thơ mở lòng sẻ chia với những thân phận “dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời”. Ông nghẹn ngào cho bao số kiếp “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”, sớm hôm chịu cảnh “thở than dưới đất, ăn nằm trên sương”. Lúc nào, bao giờ, ông cũng bị ám ảnh nặng nề bởi số kiếp con người:

“Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?” Thương thay cũng một kiếp người Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi Kiếp phù sinh như hình như ảnh Có chữ rằng vạn cảnh giai không”

Tình yêu thương mênh mông của Nguyễn Du không đứng trên lập trường của tầng lớp phong kiến thống trị. Không hề có sự ban ơn. Nó cũng không đơn thuần là tiếng thở dài, mặc nhiên cam chịu của triết lý nhà Phật. Phật giáo giải thích số kiếp mỗi người đều do chính mình đã gieo nhân nên gặt quả. Con người không nên than vãn vô ích về số kiếp của mình, mà chỉ nên tìm cách cởi dần oan trái, thoát khỏi luân hồi. Quan niệm của Nguyễn Du không đơn thuần như thế. Nó còn bám rễ lên cây từ những biến động, quan hệ phức tạp của cuộc đời. Ông nhận ra nhiều oan trái từ giữa lòng xã hội phong kiến hà khắc, bất công. Qua những vần thơ ông, đã lộ diện một xã hội đói nghèo, khốn quẫn. Nếu không thế, sao đến nỗi bao người phải liều thân “vào sông ra bể”, tần tảo “đi về mua bán”, hay sa vào thảm cảnh “hành khất ngược xuôi”? Và đất nước không chiến tranh, loạn lạc, thử hỏi sao có “kẻ mắc vào khóa lính”, thêm biết bao “mạng người như rác”. Những lúc này, Nguyễn Du thật sự đớn đau và nhức nhối trước cõi phù sinh. Sau mỗi dòng thơ, ông hạ xuống dấu chấm than, nhưng neo lại cho đời chấm hỏi. Đó chính là câu hỏi lớn, đầy bế tắc của thời đại bấy giờ.

*          *         *

Nghĩ về những con người bình thường, bất hạnh, nhà thơ dành tấc lòng ưu ái nhất cho người phụ nữ, đặc biệt là những kẻ “liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa”. Định kiến xã hội xưa luôn ném cái nhìn khinh miệt đối với chuyện tà dâm, trút hết tội lỗi vào thân phận người phụ nữ lỡ làng. TrongVăn chiêu hồn, tuy không khai thác được tận cùng bi kịch của họ như ởĐoạn trường tân thanh nhưng Nguyễn Du vẫn kịp viết những dòng thơ rung cảm nhất về kiếp người này. Nhìn họ đang thời xuân sắc, nhà thơ giật mình nghĩ đến ngày mai, thời gian nghiệt ngã sẽ cuốn xô họ vào những bãi bờ cô độc, hẩm hiu:

“Ngẩn ngơ khi trở về già Ai chồng con tá, biết là cậy ai”

Cảm thương người kỹ nữ đến dường ấy, trước và cùng thời Nguyễn Du có được bao người?

Thế rồi, từ những mảnh đời riêng lẻ, nhà thơ nhìn ra nỗi đau chung của phận đàn bà:

“Đau đớn thay, phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”

Lời thơ trĩu nặng nhân tình như còn ám ảnh đến hôm nay, khi đâu đó vẫn còn phân biệt đối xử với người phụ nữ. Chính tinh thần nhân văn đã đưa tư tưởng Nguyễn Du băng qua nhiều thế kỷ. Lời thơ ông cất lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy thấu hiểu và quan tâm đến những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ. Họ vẫn mãi là những người đáng thương trong những kiếp người bình thường, bất hạnh.

*          *         *

Càng suy gẫm về những kiếp người cơ cực trong Văn chiêu hồn, ta càng sững sờ trước tầm nhìn thấu “sáu cõi” của nhà thơ. Nguyễn Du vẫn luôn là người đi trước thời đại. Không dừng ở hồi chuông giải oan cho người phụ nữ, ông còn gióng thêm hồi chuông cứu vớt linh hồn những hài nhi xấu số:

“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha. Lấy ai bồng bế vào ra, U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”.

Quan tâm tới đối tượng này, Nguyễn Du càng khẳng định thêm tinh thần nhân văn của mình. Trong tâm thức con người thời phong kiến, chưa bao giờ hài nhi được quan tâm như một số phận có quyền sống và nhu cầu được sống. Chỉ có người cao tuổi mới đáng được đời quan tâm, trọng vọng. Văn học trung đại nhiều thế kỷ, vì thế, chẳng có lấy một vần thơ về trẻ con. Vậy mà, lần đầu tiên, Nguyễn Du lại dành nước mắt xót thương khóc chúng. Lần đầu tiên, Nguyễn Du mạnh dạn đưa tiếng khóc hài nhi vào văn học. Với nhà thơ, dẫu mới chào đời nhưng chúng vẫn có tư cách và quyền sống của một con người. Nguyễn Du thương chúng không được hưởng những quyền tối thiểu của một trẻ thơ: được bồng bế, nâng niu. Nhà thơ đứt ruột bởi tiếng khóc ngây thơ, ngắn ngủi của chúng:

“U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”

Có thể thấy, với Nguyễn Du, ngay khi cất tiếng chào đời, trẻ con đã là một con người, có quyền bình đẳng với bao nhiêu người lớn. Nhà thơ trách tạo hóa phũ phàng, để những hài nhi “lỗi giờ sinh” phải sớm từ biệt cõi đời. Từ niềm trắc ẩn về những hài nhi, nhà thơ như muốn gởi cho đời thông điệp: được sống, đó là quyền tối thiểu của mỗi con người.

*          *         *

Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du không chỉ quan tâm mà còn tìm cách cứu vớt con người thoát cơn hoạn nạn, làm phương giúp con người bớt khổ.

Nhà thơ đã bộc lộ nghĩa cử nhân ái đầu tiên, khi nhắc lại phần đời gian khổ của những người bất hạnh. Xưa nay, người xấu số thường là kẻ bị đời quên lãng. Lúc sống, họ không được ai cứu giúp, quan tâm. Ngay phút vật vã cuối cùng, họ cũng chẳng được một ai cận kề, an ủi. Mượn văn chương, nhà thơ nhắc lại phần cuộc sống trên cõi dương thế của họ. Tuy có muộn màng nhưng đó cũng là một chút an ủi, tưởng nhớ những ai đã phải sống và chết trong sự ghẻ lạnh của đời. Những oan hồn phiêu bạt kia, được một kẻ dương trần nhớ thương, thấu hiểu, hẳn cũng ngậm cười nơi chín suối.

Trong mắt Nguyễn Du, mấy ai thoát được vòng bất hạnh, dù là những kẻ một thời nệm ấm chăn êm. Mấy ai ngờ rằng, những “kẻ mũ cao áo rộng” vẫn có ngày chịu cảnh không người lo “bát nước nén nhang”? Đến với những số phận này, lời thơ Nguyễn Du thắp lên một nén tâm hương, ngõ giúp oan hồn bớt bơ vơ, lạnh lẽo.

“Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít thành nhiều, Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh”

Theo lẽ thường, một khi gởi gắm niềm tin vào đấng siêu nhiên, con người dễ đánh mất mình, mất cả niềm tin vào bản thân. Nhưng qua những vần thơ thống thiết, Nguyễn Du đâu hề thủ tiêu bản ngã. Con người yếu đuối nơi cõi trần kia vẫn mãi tràn đầy khát khao và nghị lực, lúc nào cũng hừng hực nhiệt thành cứu vớt muôn triệu chúng sinh. Nghĩa cử cao quý ấy, cho dù có lúc phải nương tựa vào tôn giáo, nhưng vẫn là biểu hiện ngời sáng của một tinh thần nhân văn: mong muốn đem lại hơi ấm, sự sống cho mọi con người.

*          *         *

Cũng với tinh thần nhân văn, khi nghĩ về những oan hồn, Nguyễn Du không hề thoát ly mối quan hệ phức tạp giữa những người đang sống. Ông luôn đề cao lối ứng xử tình nghĩa giữa người và người. Ông nương theo lối sống biết người biết ta, luôn xem nỗi khổ của người như nỗi khổ của mình. Trong tác phẩm, nhà thơ đã bao lần hóa thân vào cảnh khổ của người, thương xót cho người:

“Đau đớn thay, phận đàn bà Thương thay cũng một kiếp người Thương thay thập loại chúng sinh Thương thay chân yếu tay mềm Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế nữa là cõi âm”

Có thể thấy, hơn ai hết, Nguyễn Du chính là mẫu mực sống cho lối ứng xử tình nghĩa, phải đạo. Nhà thơ luôn đặt mình vào cảnh khổ người khác để suy gẫm về nhân thế. Thương người đang sống, nhà thơ thương cả khi họ đã lìa đời.

*          *         *

Tinh thần nhân văn của Nguyễn Du, trong tác phẩm, còn biểu hiện qua thái độ chuộng khoan dung, khoan hòa. Ông không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Ông đề cao sự hòa giải giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lương tâm và bổn phận. Một điểm nổi bật trong Văn chiêu hồn chính là sự cổ xúy cho mối quan hệ bình đẳng giữa người và người. Sống giữa lòng xã hội phong kiến, bản thân là trí thức bậc cao, nhưng Nguyễn Du lại tạo ra một thế giới nghệ thuật có sự hòa đồng giữa hèn – sang, tiểu nhân và quân tử,…

Trước đó, ta dễ gì tìm được những vần thơ tiến bộ dường này:

“Còn chi ai quý, ai hèn Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngu”

Nguyễn Du dường như nghĩ nhiều về sự bình đẳng của mọi người trước cái chết. Con người có thể hơn thua nhau lúc sinh thời, kẻ bề trên có thể đọa đày tầng lớp dưới,… nhưng khi nhận lãnh cái chết, mọi ranh giới, sự cách biệt đều phải tiêu tan. Phải chăng, khi chọn đề tài về cái chết, về cõi âm, nhà thơ muốn gởi vào đó một triết lý thâm trầm: nghĩ về cái chết, đó là cách con người nhận thức sâu sắc nhất về cuộc sống, về “cõi người ta”. Thành ra, những ai từng đọc Nguyễn Du, mỗi lần đối diện cái chết của con người, sẽ càng thêm nâng niu sự sống. Về phương diện này, tác phẩm của Nguyễn Du giúp người đọc biết nhìn ra cái tôi ích kỷ, biết ăn năn và mong ước hòa nhập, bình đẳng với cộng đồng.

Phiêu du vào thế giới oan hồn, Nguyễn Du đâu chỉ nói chuyện với người đã khuất. Nhà thơ còn gởi biết bao thông điệp cho người đang sống. Hơn thua, tranh giành, sát hại nhau làm gì? Chạy đuổi tiền tài, địa vị hư ảo làm chi? Hãy nhìn những cái chết của bao người tham vọng!

Tuy không là nhà cải cách xã hội, nhưng qua việc tạo ra một âm giới không có sự phân biệt, oán thù, Nguyễn Du đã góp phần cổ xúy cho một xã hội tốt đẹp. Trong xã hội ấy, con người đồng cảm với nhau, biết xích lại gần nhau, biết xem nỗi bất hạnh của người khác cũng là bất hạnh của chính thân mình.

*          *         *

Trong Văn chiêu hồn, tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du thiên về tính chất đạo lý, đạo đức, chứ không thiên về bình diện triết học. Cõi dương thế mà nhà thơ miêu tả có vẻ không thuộc về một triều đại nào. Cảnh tượng đa phần là sự biến đổi của thiên nhiên, trời đất. Thảng hoặc, có cảnh sa trường, gươm giáo. Nhưng càng ngẫm, ta càng nhận ra dấu ấn của thời đại đầy biến động, bế tắc mà Nguyễn Du đang sống. Nhà thơ miêu tả nó bằng thái độ ngầm chán ngán và ghê sợ.

Trải suốt 184 câu thơ, cảnh dương thế hiện ra đầy ảm đạm, thê lương. Đó là sự biến chuyển của đất trời: “mưa dầm sùi sụt, lạnh buốt xương khô, bóng chiều man mác, lác đác sương sa, mưa sa ngói lở, gió mưa sấm sét đùng đùng, mưa gào gió thét, ngàn mây nội cỏ dầu dầu, gió trăng hiu hắt, dông tố giữa dòng,…”. Vũ trụ ấy, thử hỏi, làm sao là nơi sinh tụ một cuộc sống thịnh vượng, thái bình? Thiên nhiên như cũng lở tan, thét gào cùng với giông bão đời người. Trời đất như cũng hiu hắt, sùi sụt cùng những khổ đau, oan trái của muôn vạn sinh linh. Lại còn đây nữa, khung cảnh trần ai đầy chuyện chiến tranh, chết chóc: “bãi sa trường, tên rơi đạn lạc, mạng người như rác,…” Đâu đâu cũng thấy chực chờ những hiểm họa, tai ương: “chìm sông lạc suối, sẩy cối sa cây, nước lũ, lửa thành, sơn tinh thủy quái, nanh sói ngà voi,…”. Và đâu đâu cũng có những phận người chìm nổi, bi thương: “lênh đênh quê người, lìa cửa lìa nhà, tha phương, vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, nằm cầu gối đất, sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan,…”. Cuộc đời con người phải luôn bám víu vào sự rủi may, tạm bợ: “quán nọ cầu này, đầu chợ cuối sông, quãng đồng không,…”. Khi chết, linh hồn họ cũng bơ vơ, phiêu bồng như lúc sống:

“Dãi dầu trong mấy mươi năm, Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương”

Những vần thơ viết về âm cảnh khác nào thước phim âm bản, mà Nguyễn Du đã ghi lại sống động từ “cõi người ta”. Những vần thơ ấy là một chuỗi âm vang những lời tố khổ của nhà thơ đối với thời đại bấy giờ. Bởi luôn bám cội rễ vào cuộc đời nên thi nhân không ngăn được lời suy tư ai oán: “Cõi dương còn thế nữa là cõi âm”. Rõ ràng, ông thật sự chán ngán và ghê sợ chốn dương trần. Với ông, “những điều trông thấy” khác nào một địa ngục trần gian. Chúng sẵn sàng vùi chôn, hủy diệt tất cả sự sống, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bởi lấy con người làm trọng, nhà thơ không giấu được thái độ bất mãn với thời cuộc. Bởi nhân danh đạo lý, đạo đức của quần chúng, ông phản ứng với cuộc đời đầy bi thảm, loạn ly.

*          *         *

Tuy tiếng nói chống lại chế độ xã hội chưa rõ nét nhưng giọng điệu phê phán trong tác phẩm đã trỗi lên mạnh mẽ. Nhà thơ nghiêm khắc phê phán những hạng người chạy đuổi theo tiền bạc, hư danh. Tinh thần phê phán này đã khởi lên ngay khi nhà thơ bắt đầu khóc cho những kiếp người. Ông luận bàn về những kẻ “tính đường kiêu hãnh”, sống giữa “màn loan trướng huệ”, rồi những kẻ “mũ cao áo dài”, mê mải “bày binh bố trận”, hoặc “tính đường trí phú”, hay “rắp cầu chữ quý”. Cả sáu hạng người bất hạnh, cùng xuất thân quý tộc, hoặc cố ngoi lên thành quý tộc, đều được tác giả thương cảm hết lòng nhưng phán xét cũng thật phân minh.

Tình thương của nhà thơ dành cho họ thế nào, hẳn đã rõ. Riêng phần phán xét về họ ra sao? Xuất thân từ thế gia vọng tộc nhưng nhà thơ lại kịch kiệt phê phán những ai muốn đeo đuổi hoặc khư khư ôm lấy cuộc sống sang giàu, kiêu hãnh. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời đã khiến tác giả nhận ra hố sâu ngăn cách giữa giàu – nghèo, sướng – khổ, cũng như mầm mống bất hạnh. Tất cả đều có từ lối sống theo bả lợi danh.

Nguyễn Du tỏ ra không thiện cảm với những kẻ thích cậy mình “cung quế Hằng Nga”, hay mê mải “rắp cầu chữ quý, dấn thân vào thành thị lân la”. Ông nhìn phú quý như một thứ phù du, một mầm di hại. Bởi lẽ, “giàu sang càng nặng oán thù”, hoặc “thịnh mãn lắm oán thù càng lắm”. Tiền vàng, với ông, chỉ là thứ của phù vân, làm sao đổi được mạng người:

“Nghìn vàng khôn đổi được mình” Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi” Chưa kể, khi chết rồi, không ít kẻ giàu sang vẫn cảnh mồ hoang lạnh; “Khi sao đông đúc vui cười, Mà khi nhắm mắt, không người nhặt xương”

Ngẫm ra, đó cũng là hệ quả của một thói đời, khi ai nấy chỉ biết sống vì bạc tiền, địa vị. Sự bạc phước của những kẻ khinh người, cao ngạo, phải chăng cũng là một dạng quả báo mà nhà Phật đã từng răn giới?

Giọng điệu phê phán còn hướng về những kẻ dự phần gây nên chiến tranh, ly loạn. Họ như con thiêu thân, lao vào “buổi tranh hùng”, cố “đổi mình vào lấy ấn nguyên nhung”. Sự xả thân của họ, kỳ thực, chỉ là một hành động u mê: “dãi thây trăm họ làm công một người”.

Thương mà tức cho kẻ lầm đường, Nguyễn Du đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Theo ông, lối sống, hành động bạo tàn của họ là nguyên nhân không dứt của biết bao thảm cảnh, gây ra bao cái chết tức tửi cho thường dân vô tội. Phê phán chiến tranh phi nghĩa, đó cũng là biểu hiện cụ thể của tinh thần bảo vệ quyền sống, sự sống của mọi người trên đất nước mình, trong ‘cõi người ta”.

*          *         *

Nói tóm lại, Văn tế thập loại chúng sinh, hay Văn chiêu hồn, là một tác phẩm tràn đầy tinh thần nhân văn. Tác phẩm là biểu hiện sống động cho chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du. Nhà thơ khóc người đã khuất, nhưng hóa ra, nghẹn ngào tâm sự với người đang sống. Nhà thơ làm cuộc hành trình đến cõi âm, nhưng cuối cùng, làm cuộc khúc xạ, quay ngược về “chốn trần ai”. Ông nói về quá khứ, nhưng kỳ thực, đang nhìn hiện tại và nghĩ tận ngày mai. Bài văn tế còn mang ý nghĩa một lời dự báo: ngày nào còn cái xã hội đầy bão giông biến động này, ngày ấy con người sẽ còn sa vào hố sâu bất hạnh. Rồi đây, con người sẽ còn chịu cảnh trầm luân cùng “thập loại chúng sinh”, nếu không kịp thời bừng tỉnh, thoát khỏi vòng mê đắm của phú quý vinh hoa,…

Vượt qua thời gian, bài văn tế cứ lặng lẽ tan thấm, hằn sâu vào trái tim người đọc, người nghe. Nó tỏa ra một sức chấn động vô biên, có sức mạnh làm thay đổi tư tưởng, cách sống con người. Sau Đoạn trường tân thanh, tác phẩm cũng là một tiếng khóc lớn, mang tầm thời đại. Nó cũng có tư cách một bài thơ trữ tình dài hơi, tầm vóc in vào thế kỷ. Tạo được những hiệu quả và giá trị lớn lao đó, bởi tác phẩm đã cháy lên từ lò lửa của chủ nghĩa nhân văn, vừa phát khởi từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm còn được nuôi dưỡng bền lâu bởi ngọn lửa chủ nghĩa nhân văn của chính đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Võ Phúc Châu

Nguyễn Du Và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Trong Tương Quan Văn Hóa Phật Giáo

          

          Thác là thể phách – còn là tinh anh

          (Nguyễn Du)

          Cúng mười loại cô hồn là loại hình văn hóa nghi thức Phật giáo dùng trong ngày rằm tháng bảy hàng năm, để siêu thoát cho các cô hồn trong lục đạo được ăn uống tránh đói khổ, siêu sinh lên cõi trời thanh tịnh, lạc đạo. Với mười loại cô hồn, bài Văn tế thập loại chúng sinh (gọi tắt là Văn tế) tương truyền là của Nguyễn Du không những chủ yếu trong nghi thức mà còn là một tác phẩm văn học Nôm có giá trị.

          Trước tiên chúng tôi tìm về lễ nghi thí thực mà đến nay bài văn này vẫn dùng trong cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy. Khi nghiên cứu về văn bản Văn tế, các học giả đi trước cũng nhìn nhận rằng, bài văn được dùng trong lễ nghi Phật giáo, tuy nhiên chưa ai tìm nguồn gốc chuyển thể, phóng tác tác phẩm. Nguồn gốc khoa cúng thí thực từ câu chuyện trong Phật kinh bảo điển, cho biết Diện Nhiên thị hiện cho A Nan và đức Phật dạy nghi thức cúng thí thực. Các bản kinh Phật về thí thực và lễ nghi được lưu lại rất đầy đủ trong bộ Mật tông của Đại tạng kinh do Thật-xoa-nan-đà, Kim Cương Trí và học trò là Bất Không chuyển dịch như: Thí chư ngạ quỹ ẩm thực cập thủy pháp, Du-già tập yếu cứu A-Nan Đà-la-ni nghi quỹ, Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỹ đà la ni thần chú… hoặc các bản nghi thức trong Vạn tục tạng kinh của các tác giả đời Minh Thanh.

          Trong bộ Mật tông của Đại tạng kinh như 瑜 伽 集 要 焰 口 施 食 儀 Du già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, 1 quyển không rõ dịch giả, ghi rõ nghi thức cúng thí thực vào rằm tháng bảy. Khoa nghi tổng hợp các chân ngôn, các lời chú, quyết, bao gồm thân, khẩu, ý trong hành trì của Mật tông để đạt hiệu quả dẫn dụ cho cô hồn, ngạ quỹ được cứu vớt, thoát khỏi địa ngục khổ đói. Về sau, sự kết hợp tín ngưỡng bản địa Trung Quốc và Mật tông đã cho ra đời nghi thức cúng Thủy lục chư khoa bởi pháp sư Bất Động ở núi Mông Sơn. Đàn cúng Mông Sơn ngày nay vẫn thịnh hành trong nghi thức cúng ngày rằm tháng bảy ở Trung Quốc cũng như Việt Nam. Tuy nhiên trong văn bản Hán thì khoa cúng Mông Sơn là một dạng tổng hợp và rút gọn của Nghi quỹ thí thực. Có thể nói bản Nghi quỹ thí thực do Châu Hoằng Vân Thê hiệu chỉnh là chuẩn mực cho các bản về sau, đồng thời cũng đơn giản hơn. Ông không những hiệu chỉnh mà còn chú giải tường tận cho Nghi quỹ Du già truyền bản sang Việt Nam.

          Chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu kĩ về khoa cúng thí thực ở Việt Nam,nhưng theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn, cho biết Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế. Đồng thời trong các chùa Việt lưu truyền sách Bảo Đỉnh hành trì tập hợp khoa nghi bí mật nội truyền do Huyền Quang tổ sư soạn thảo cũng phần nào nói lên việc thịnh hành nghi thức Phật giáo. Hơn thế, các bộ sách sử như Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư…. đều ghi chép đời Trần nước ta đã xin vua Tống Đại tạng kinh. Điều này phần nào nói lên Nghi quỹ thí thực tồn tại ở nước ta từ rất sớm. Thời Lê – Trịnh – Nguyễn, đàn Thủy lục được Chuyết Chuyết tiến hành để bảo dương độ âm cho tướng sĩ bại vong trong chiến tranh được nhiều tư liệu Hán Nôm ghi lại. Bộ Thủy lục từ bản Chân Nguyên (1709) đến bản gần đây nhất là năm 1894 đã trải qua nhiều lần in nhưng nội dung không có nhiều dị biệt. Ngoài ra, bản Tiểu Du già thí thực pháp, cũng được Phúc Điền hòa thượng cho khắc in tại chùa Đại Quang xã Phú Nhi (Sơn Tây – Hà Tây) năm Thiệu Trị 4 (1844) đầy đủ nghi tiết cúng Thí thực cho cô hồn, giống bản của Châu Hoằng đời Minh. Điều này cho biết vào thời Lê – Trịnh và sang thời Nguyễn nghi thức cúng cô hồn rất thịnh hành ở nước ta, truyền thừa từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng giống như các truyền bản văn học cùng thời, và việc biên dịch Văn tế từ Hán sang văn bản Nôm là điều có thể.

          Bài Văn tế bao gồm 184 câu, chia ra làm ba phần chính: Phần đầu giới thiệu cảnh não nề của tháng bảy mưa dầm sùi sụt, cảnh lặng lẽ man mác, buồn thương…; Phần thứ hai nói rõ mười loại cô hồn, đây là phần chính của bài văn; Phần cuối kết luận, mở hướng cho con người đi vào con đường lương thiện, theo cầu đạo Phật từ bi để không sa đọa vào cô hồn quỷ đói. Cả ba phần đều với giọng văn thê thiết, vạch hướng con người đi vào con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ai của kiếp nhân quả luân hồi.

          Phần thứ hai, tức phần chính bao gồm 10 loại cô hồn chúng tôi thấy có nhiều điểm tương quan với Nghi quỹ Du già thí thực. Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi so sánh văn bản Hán là Du già tập yếu thí thực nghi quỹ  瑜 伽 集 要 施食 儀 軌 (gọi tắt là bản Du già) do Châu Hoằng đời Minh soạn với bản Văn tế được GS. Hoàng Xuân Hãn giới thiệu. Chúng tôi sẽ lấy bản Hán làm bản chính, để so sánh sự thay đổi thứ tự trong hai bản.

So sánh “thập loại cô hồn” trong hai bản:

Bản Du già

Bản Văn tế

1. Vua chúa vương hầu.

2. Anh hùng tướng soái.

3. Tể thần.

4. Văn nhân tài tử.

5. Tăng ni – xuất gia.

6. Đạo sĩ.

7. Buôn bán chết xa.

8. Binh lính chết trận.

9. Mẹ con sản nạn.

10. Man rợ, điếc, mù,…

11. Mỹ nhân khuê các.

12. Đói, rét… chết nạn.

13. Tổng hợp “thập loại cô hồn” trong “lục đạo”.

1. Vua chúa bị giết.

2. Quý nữ liều thân.

3. Tể thần thất thế.

4. Đại tướng bại trận.

5. Ham giàu chết đường.

6. Ham danh chết quán.

7. Buôn bán chết xa.

8. Binh lính chết trận.

9. Kĩ nữ cô đơn.

10. Chết bởi nghèo nàn tai họa.

          Tuy hai bản con số cô hồn liệt kê khác nhau nhưng hệ số cô hồn được ấn định là con số 10 (thập loại). Đồng thời “thập loại cô hồn” là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo”. Các bản trong Đại tạng, Vạn tục tạng hay các nghi thức dân gian đều ghi là 10 loại cô hồn (thập loại cô hồn) nhưng không bản nào cố định con số 10 loại. Bản Văn tế tóm gọn là 10 loại cô hồn nhưng loại thứ 10 nếu chia nhỏ ra thì cũng có thể thành 13 loại, như bản Du già. Tuy số loại cô hồn trong hai bản về cơ bản không khác nhau, nhưng thứ tự các loại cô hồn cũng như loại cô hồn trong hai bản khác nhau.

          Điều đáng nói là bản Văn tế - bản Nôm, tác giả đã không kể người Tăng ni xuất gia đầuPhật và Đạo sĩ như trong bản Du già. Chúng tôi không rõ tác giả có dụng ý gì khi loại trừ hai loại cô hồn trên. Các bản Nghi quỹ Du già không loại trừ Tăng ni xuất gia và Đạo sĩ trong “lục đạo cô hồn”, cho thấy hoàn toàn phù hợp với thế giới quan của Phật giáo.

          Bản Du già và Văn tế có nhiều điểm giống nhau trong phân loại cô hồn, điều đó thể hiện trên phương diện nào đó của ngôn ngữ cũng như dụng ý. Tuy nhiên, từ một văn bản Hán theo lối của bản Du già, tác giả Văn tế đã phóng tác uyển chuyển thành dạng văn song thất lục bát:

          Ví dụ đoạn 2 bản Du già:

      一心 召 請。 築 壇 拜 將。 建 節 封 侯。 力 移 金 鼎 千 鈞 。 身 作 長 城 萬 里。(白) 霞 寒 豹 帳。 徒 勤 汗 馬 之 勞。 風 息 狼 煙。 空 負 攀 龍 之 望。 (嗚 呼) 將 軍 戰 馬 今 何 在。 野 草 閒 花 滿 地 愁 。 如 是 英 雄 將 帥 之 流。 一 類 孤 魂 等 眾(云 云)。

Phiên âm:

          Nhất tâm triệu thỉnh: Trúc đàn bái tướng, kiến tiết phong hầu. Lực di kim đỉnh thiên quân, thân tác trường thành vạn lí. Bạch hà hàn báo trướng, đồ cần hãn mã chi lao; Phong tức lang yên, không phụ phan long chi vọng. Ô hô ! Tướng quân chiến mã kim hà tại; Dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu. Như thị anh hùng tướng suất chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng v.v…

Dịch nghĩa:

          Một lòng triệu thỉnh: xây đàn bái tướng, dựng tiết phong hầu. Sức dời kimđỉnh nghìn cân, thân làm trường thành muôn dặm. Bạch sương hàn trướng báo, uổng sức trâu ngựa nhọc nhằn; gió tạnh lang yên, luống phụ vương hầu ngóng vọng. Ô hô ! tướng quân chiến mã nay đâu tá; Cỏ dại hoa suông khắp đất buồn. Đấy là loại cô hồn anh hùng tướng soái.

Với đoạn 4 – Đại tướng bại trận, bản Văn tế:

Nào những kẻ bài binh bố trận

Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung

Gió mưa thét rống đùng đùng

Phơi thây trăm họ làm công một người

Khi thất thế cung rơi tên lạc

Bãi sa trường thịt nát máu trôi

Bơ vơ góc bể chân trời

Bó thân da ngựa biết vùi vào đâu

Trời xâm xẩm mưa gào gió thét

Khí âm ngưng mù mịt trước sau

Năm năm sương nắng dãi dầu

Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường.

          Cho thấy văn bản phóng tác uyển chuyển mạch lạc và phần nào nói rõ hơn dụng ý cũng như mặt ngôn ngữ Việt hàm súc mà bản Văn tế dường như không hề dịch sát nguyên văn từ bản Du già, tuy nhiên âm hưởng buồn và tình tiết có nhiều điểm tương tự.

Để thấy rõ hơn chúng tôi dẫn dụ so sánh đoạn 11 của Du già:

      一 心 召 請 。 宮 幃 美 女 。 閨 閣 佳 人。 臙 脂 盡 面 爭 妍。 龍 麝 薰 衣 競 俏。 (白) 雲 收 雨 歇 。 魂 消 金 谷 之 園 。 月 缺 花 殘 。 腸 斷 馬 嵬 之 驛 等 (嗚 呼) 昔 日風 流 都 不 見。 綠 楊 芳 草 髑 髏 寒。 如 是 裙 釵 婦 女 之 流。 一 類 孤 魂 眾(云 云)。

Phiên âm:

          Nhất tâm triệu thỉnh: Cung vi mĩ nữ, khuê các giai nhân. Yên chi họa diện tranh nghiên, long xạ huân y cạnh tiếu. (Bạch), vân thu vũ yết, hồn tiêu Kim Cốc chi viên; Nguyệt khuyết hoa tàn, trường đoạn Mã Ngôi chi dịch. Ô hô! tích nhật phong lưu đô bất kiến; Lục dương phương thảo độc lâu hàn. Như thị quần thoa phụ nữ chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng ,… v. v….

Dịch nghĩa:

          Một lòng triệu thỉnh: mỹ nữ cấm cung, giai nhân khuê các. Phấn son vẽ mặt đua duyên, áo ướp xạ hương khoe sắc. (Bạch) mây tạnh mưa tan, hồn về vườn cũ Kim Cốc; Trăng khuyết, hoa tàn, ruột đứt trạm quán Mã ngôi (như Dương Quý Phi thời Đường). Ô hô ! Dấu xưa phong lưu giờ đâu thấy; cỏ thơm liễu biếc đống xương tàn. Như vậy là loại cô hồn quần xoa phụ nữ.

Với đoạn 2 -Quý nữ liều thân, bản Văn tế:

Nào những kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung Quế Hằng nga

Một phen thay đổi sơn hà

Tấm thân mảnh lá biết là làm sao

Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương

Thảm thiết nhẽ không hương không khói

Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu.

          Qua so sánh cho thấy hai văn bản có sự dị biệt không nhỏ. Bản Du già mang tính chất quy phạm, ước lệ và sáo mòn. Từ vua chúa công hầu, khanh tướng mang tính chất ước lệ như đưa hình ảnh Lưu Bang vua Hán dựng đàn bái Hàn Tín làm tướng, hay một thân phận Dương Quý Phi khi đến Mã Ngôi bị vua Đường giết (Châu Hoằng chú bản Du già), v.v…Tính chất ước lệ tượng trưng thể hiện rõ trong quan điểm đạo đức tôn ti trật tự từ cao xuống thấp, đứng đầu là vua rồi dần dần thấp hơn trong thứ bậc. Đồng thời, hình thức diễn đạt của văn bản thuần túy là một nghi thức bao gồm các phần “nhất tâm triệu thỉnh”, “ô hô”, “bạch”,… trong mỗi loại cô hồn, cũng như chủ thể tác giả hoàn toàn cách biệt, không gắn sự thương cảm trong ngôn ngữ tác phẩm. Trong khi tác phẩm Nôm Việt, tác giả bản Văn tế đã đứng trong cái bi thương của kiếp người để viết lên những trang từ lòng người. Vị thế của người viết đã khác với bản Du già, hòa nhập trong ngôn ngữ, chủ động và sáng tạo. Giữa hai bản thì bản Văn tế uyển chuyển và tình cảm, cái tôi thương cảm của tác giả thể hiện đến với từng thân phận con người. Bản Văn tế không có cái tính chất sáo mòn của nghi lễ, mỗi thân phận cô hồn đều được nhìn trên nhiều góc độ, của chủ nghĩa nhân đạo. Hơn thế, tác giả không chỉ hòa nhập trong bối cảnh, hòa mình trong bài Văn tế mà còn đứng trong vai trò khách quan với tâm thái của người ở trên tất cả, để nhìn nhận xuống bên dưới là vua tôi khanh tướng. Cái tâm thái đó thể hiện của người “bề trên” khi tác giả gọi vua tôi, khanh tướng đều là “kẻ”:

          “Nào những kẻ tính đường kiểu hạnh” (nói về vua chúa bị giết, câu 21).

          “Nào những kẻ màn lan trướng huệ” (nói về quý nữ liều thân, câu 33).

          v.v…

          “Đau đớn thay phận đàn bà

          Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu”

(câu 116).

          hay thương cảm cho người tướng bại trận:

          “Bơ vơ góc bể chân trời

          Bó thân da ngựa biết vùi vào đâu”

(câu 64).

          Từ so sánh chúng tôi nhận định:

          – Trong văn bản Hán cũng như Nôm đều ghi là “thập loại chúng sinh” tức là 10 loại cô hồn. Tuy nhiên trong cả văn bản Nôm và Hán đều không dừng lại ở con số 10, mà là đến 13 loại cô hồn và mở ra con số không cố định. Trong nhân sinh quan Phật giáo, 10 loại cô hồn chỉ là dạng tượng trưng trong tổng thể các loại cô hồn trong “lục đạo”.

          – Vị thế tác giả tác phẩm là hoàn toàn chủ quan. Tác giả nhìn nhận tất cả các loại cô hồn bằng tình cảm nhân đạo, bằng vị thế bao trùm, tổng quát nhưng không mất đi tình cảm đau thương. Điều này có phần thích hợp với giai đoạn xã hội có nhiều biến chuyển cuối Lê đầu Nguyễn, đất nước loạn ly, nhân dân khổ sở, đói rách mà tâm thức tác giả với vị vua sáng tướng hiền không còn. Bộ mặt xã hội thể hiện trên sự miêu tả các loại cô hồn, tác giả đã đồng cảm, thương cảm cho kiếp người cũng như cho chính bản thân tác giả trong sự bế tắc, bộ mặt đau thương của xã hội.

          – Dụng ý ban đầu của chúng tôi dựa trên nội chứng của văn bản để xác định tác giả, và không loại trừ khả năng tác giả bài Văn tế không phải là Nguyễn Du. Tuy nhiên quá trình so sánh, nhìn nhận trong tương quan thời đại và con người, ngôn ngữ và văn bản thì dần chúng tôi thấy đồng cảm hơn với các học giả đi trước như cụ Lê Thước, GS. Hoàng Xuân Hãn khi cho rằng tác giả bài Văn tế là Nguyễn Du.

          – Nguyễn Du đã phóng tác bài Văn tế từ một khoa nghi Phật giáo, khoa cúng Du già, chuyển thể một dạng thức Hán văn 10 loại cô hồn thành một bài Văn tế uyển chuyển về văn từ và ngữ nghĩa. Bản Nôm có phần mở đầu, phần giữa và kết thúc dễ đọc dễ thuộc và không khó trong phổ biến, tạo hiệu quả tốt hơn cho người đọc người nghe trong con đường hướng thiện mà sự biểu hiện của dạng thức nghi thức là phương tiện dẫn dụ.

          Nhiều người đã tiến hành phân tích cũng như nói về nghệ thuật ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Du trong diễn tiến văn bản Nôm. Chúng tôi không nghĩ có thể tiến sát đến dụng ý của tác giả, nhưng thông qua nghệ thuật ngôn ngữ phần nào có thể tiếp cận con người và thời đại đã đản sinh nên áng văn chương này.

“Ngàn lau khảm bạc; giếng ngô rụng vàng” (câu 4)

“Máu tươi lai láng; xương khô rã rời” (câu 28)

“Đã đêm Quản Cát; lại ngày Y Chu” (câu 48)

          …..

          Cho thấy, các vế tạo nên một cặp đối tương xứng về nhịp điệu âm vận bằng trắc, như “Anh em: thiên hạ” đối với “láng giềng: người dưng” (câu 88) hay “Ư ư tiếng khóc” với “xót xa nỗi lòng” (câu 128). Đồng thời cũng đối cả các cặp từ láy luyến, tạo nên hiệu quả đặc biệt cho ngôn ngữ biểu cảm. Số lượng câu tiểu đối trong toàn bài là 13 câu, chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong chỉnh thể một cặp thơ song thất lục bát.

          Hơn nữa, bài Văn tế có rất nhiều cặp từ láy luyến. Đây cũng là điều rất đặc biệt trong phong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Các cặp láy luyến như: “xùi xụt” (câu 1), “man mác” (câu 5), “lác đác” (câu 6), “thiết tha” (câu 7), “tối tăm” (câu 9),…. Toàn bài gồm 45 cặp láy đôi như vậy.

          Ngoài ra còn các dạng thức láy ba, láy bốn khác mà chúng tôi chưa khảo cứu kỹ lưỡng. Đồng thời, phương diện ngôn ngữ chúng tôi cũng chỉ nêu các cặp láy mà thôi chứ không phân tích về hình thức láy âm, láy vận, láy phụ âm hay nguyên âm,….

          Tạo nên cú pháp với các điệp láy, tác giả đã làm cho hiệu quả câu thơ uyển chuyển hơn, dễ đọc, hàm xúc và đảm bảo biểu đạt trong ngôn ngữ. Văn tế sử dụng trong nghi thức Phật giáo, cúng ngày rằm tháng bảy nên phương diện ngữ âm đọc đạt được hiệu quả, giọng điệu ngâm nga phù hợp cũng như tạo nên âm hưởng thê thiết, bi thương.

          Dụng pháp trong ngôn ngữ Phật giáo đã được tác giả Nguyễn Du sử dụng nhuần nhuyễn qua hình ảnh tôn giáo nằm sâu trong lớp lang văn hóa của bài Văn tế. Là một văn bản chuyển thể từ dạng thức Hán sang Nôm, tác giả đã vượt qua cái khô cứng của ngôn ngữ văn chương biền ngẫu Hán, một văn bản ngôn ngữ Phật giáo để chuyển thể sang ngôn ngữ Nôm Việt thuần tuý, gần gũi và thuần phác, có tính chất bác học. Chúng tôi muốn nói tới hệ thống văn hóa Phật giáo trong bài Văn tế, để có thể nhìn nhận một khía cạnh nào đó trong tư tưởng của tác giả thông qua thế giới quan Phật giáo phổ hợp lên dạng thức ngôn ngữ Nôm Việt.

          Thực ra, Nguyễn Du không sử dụng quá nhiều thuật ngữ Phật giáo trong toàn văn, duy chỉ phần thứ tư “cầu Phật giải thoát cô hồn” là dẫn dụ một số thuật ngữ Phật giáo, nhưng hàm ý của toàn bài văn mang nội dung tín ngưỡng tôn giáo cũng như một nội hàm triết thuyết. Ngay như phần đầu tác giả viết:

“Muôn nhờ Phật lực từ bi

Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương” (câu 20)

          Đã rõ ràng cho thấy một dạng thức của tư tưởng người Việt trong cảm quan văn hóa Phật giáo thể hiện qua ngôn ngữ. Hồn được giải oan cứu khổ, không xa rời kinh điển Phật giáo, Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỷ đà la ni thần chú trong bộ Mật tông nói về cúng thí thực cô hồn, để cô hồn “thoát khỏi quỷ đói để sinh lên cõi trời” (li ngạ quỷ chi khổ, đắc sinh thiên thượng  離 餓 鬼 之 苦 得 生 天 上). Nhưng rõ ràng ngôn ngữ gần gũi với người Việt, gần gũi với tín ngưỡng siêu sinh Tây phương cực lạc, như hình thức tôn thờ Phật Di lặc và Bồ tát trong dân gian. “Giải oan cứu khổ” đã gắn với ngôn ngữ đời thường, gắn với cuộc sống của con người mong cầu vượt qua được “oan”, “khổ” để đạt đến cuộc sống lương thiện tốt đẹp. Như đoạn cuối cũng viết “nhờ Phật lực siêu sinh Tịnh độ…”, cả đoạn này về sau đều hướng con người đến với Phật pháp, để được siêu thoát khỏi kiếp đời khổ đau này. Tác giả viết:

“Ai ai lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi” (câu 172)

          Cho thấy sự đúc kết lại là con người nên lấy tâm làm tâm Phật, “tâm tức thị Phật” thì có thể thành chính quả, đến với cõi trời thanh tịnh, không phải chịu cảnh khổ đau nữa.

          Toàn bài văn là không gian ảm đạm thê lương của “tiết tháng bảy”. Cõi âm như được tái hiện trên cõi dương bằng hiện thân của các loại cô hồn trong xã hội. Phải chăng đây cũng là bộ mặt xã hội mà tác giả dụng ý thể hiện qua hình thức ngôn ngữ, phần nào nói lên cái đau đời trong tâm thức của ông ? Có thể nói Nguyễn Du đã đau cái đau của nhân gian, của xã hội trong một giai kì biến loạn. Bản Văn tế không chỉ là một nghi thức trong khoa cúng thí thực chẩn tế cô hồn ngày rằm tháng bảy hàng năm mà hơn thế là bộ mặt của một giai đoạn tăm tối, nhân dân khổ cực, chiến tranh và đói khát gắn liền đưa con người vào vòng khổ não.

          Chưa phải kết ngữ cho nghiên cứu về Nguyễn Du, những cố gắng của chúng tôi chỉ nhằm làm rõ hơn con đường chuyển thể từ Hán sang Nôm của bài Văn tế. Bài Văn tế đã thể hiện được nhuần nhuyễn, sinh động và bi thương hơn trong dạng thức Nôm Việt. Đồng thời cho thấy tác giả gửi gắm tâm sự với chúng sinh, hướng thiện con người sống theo đạo từ bi Phật giáo. Nhân sinh quan của tác giả đặt trong thế giới quan Phật giáo thể hiện tấm lòng nhân đạo thiết tha với đất nước với dân tộc trong giai kì nhiều biến chuyển.

Tài liệu tham khảo

(1) Nguyễn Du: Chiêu hồn thập loại chúng sinh, T.T Thích Tâm Châu đề tựa, Đàm Quang Thiện hiệu chú, Nam Chi Tùng thư xuất bản, Sài gòn 1965, tr.64, 65.

(2) La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 3, Nxb. Giáo dục, H. 1998, tr.1292.

(3) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, H. 2000.

(4) Lê Thánh Tông, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, Phan Trọng Điềm – Bùi Văn Nguyên, phiên âm, sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Văn hóa, Viện Văn học, H. 1962.

(4) Ứng phó dư biên tổng tập, kí hiệu AB.658 và AB.21, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(5) Thủy lục chư khoa, Chân Nguyên Tuệ Đăng in năm Vĩnh Thịnh 5 triều Lê (1709), ký hiệu AC.691 và AC.340 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(6) Thủy lục chư khoa, in năm Thành Thái thứ 6 (1894) gồm 6 tập 30 quyển trong đó có khoa Mông Sơn, trùng san tại Vĩnh Phúc hợp phái Phù Lãng, Vũ Giang, Từ Sơn, Bắc Ninh, bản lưu tại chùa Ngọc Quán, Hà Nội.

(7) Tiểu Du già thí thực pháp, kí hiệu AC.961, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hòa thượng Phúc Điền in tại chùa Phú Nhi xã Đại Quang, Sơn Tây, năm 1844.

(8) Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi T.21, Đại tạng kinh, kí hiệu: No.1320.

(9) Phật thuyết Cứu Diện nhiên ngạ quỹ đà la ni thần chú, Đại tạng kinh, No.13114.

(10) Vạn tục tạng kinh, quyển 59:

Kí hiệu 1080 - Du già tập yếu thí thực nghi quỹ - Châu Hoằng triều Minh trùng đính.

Kí hiệu 1081 - Tu thiết Du già tập yếu thí thực đàn nghi chú - Châu Hoằng bổ chú.

Kí hiệu 1082 - Ư mật sâm thí thực chỉ khái - Pháp Tạng triều Thanh viết.

Kí hiệu 1083- Tu tập Du già tập yếu thí thực đàn nghi - Pháp Tạng triều Thanh viết.

Kí hiệu 1084 -Du già diệm khẩu chú tập toản yếu nghi quỹ - Tịch Cù đời Thanh soạn./.

Phạm Tuấn

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (75) 2006; tr. 50-57, phiên bản trực tuyến ngày 27.11.2006.

Văn Cúng Cô Hồn Thập Loại Chúng Sinh

Văn cúng cô hồn thập loại chúng sinh

10 tháng 8, 2017

KÍNH LỄ MƯỜI PHƯƠNG TAM BẢO CHỨNG MINH

Hôm nay ngày……tháng……năm………………(Âm lịch).

Con tên là:…………………..tuổi……………….

Ngụ tại số nhà …, đường…, phường (xã)… , quận (huyện ) ……………,tỉnh (Tp):…………………

Trân trọng kính mời các chư vị khuất mặt, khuất mày, kẻ lớn, người nhỏ, thập loại cô hồn, các Đảng, âm binh ngoài đường, ngoài xá, hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn…về nơi đây hưởng lộc thực đầy đủ…

Phát lòng thành tịnh, thiết lập đạo tràng, bày tiệc cam lồ, kỳ an gia trạch, kỳ an bổn mạng. Nhờ ơn tế độ, thêm sự phước duyên, nguyện xin gia đình yên ổn, thuận lợi bán buôn, phù hộ được buôn may bán đắt, mọi sự được sở cầu như ý, dòng họ quy hướng đạo mầu, con cháu học hành tinh tiến, nguyện cầu thế giới hòa bình, nhơn sanh phước lạc.

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng Độ cho nhứt thiết siêu thăng thượng đài.

– Tịnh pháp giới chân ngôn: ÔM LAM, ÔM SĨ LÂM (7 lần)

– Chân ngôn phá địa ngục: ÁN GIÀ RA ĐẾ DẠ, TA BÀ HA.(7 lần)

– Chân ngôn biến thực: (biến thức ăn cho nhiều)

NAM MÔ TÁT PHẠ ĐÁT THA, NGA ĐÀ PHẠ LÔ CHỈ ĐẾ , ÁN TÁM BẠT RA, TÁM BẠT RA HỒNG ( 7 lần )

– Chân ngôn Cam lồ thủy: (biến nước uống cho nhiều) NAM MÔ TÔ RÔ BÀ DA, ĐÁT THA NGA ĐA DA, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN TÔ RÔ, TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, TA BÀ HA. (7 lần)

Chân ngôn cúng dường: ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠT PHIỆT NHỰT RA HỒNG (7 lần).

Cúng cô hồn vào thời điểm sau 12 giờ trưa, vì từ khi mặt trời mọc đến 12 giờ trưa là giờ dương khí, còn sau 12 giờ trưa đến khuya là giờ khí âm.

2/ Cháo trắng nấu lỏng (12 chén nhỏ), hay là cơm vắt: 3 vắt

4/ Giấy áo, giấy tiền vàng bạc.

6/ Mía (để nguyên vỏ và chặt tùng khúc nhỏ độ 15 cm)

8/ Nước: 3 ly nhỏ, 3 cây nhang, 2 ngọn nến nhỏ.

Điều quan trọng là phải đọc Thần chú cho đúng và đủ, gởi cái tâm thiết tha thương cảm, mong cho chúng sanh an vui và no. Gạo, muối, cháo, không cần nhiều. Nhờ có chú biến thực là đã biến hoá được hàng hà sa số thực phẩm rồi.

(Theo Sư Ông Thích Thông Bửu, cô hồn rất thích bắp rang và mía).

Phải khắc phục ngay nếu bị giống thế này ?

Không còn cách nào nhanh và kinh tế bằng cách này: