--- Bài mới hơn ---
Dọn Bàn Thờ Thần Tài Ngày 23 Chuẩn Đón Tài Lộc Vào Nhà Cách Đặt Ông Cóc Và Tỳ Hưu Trên Ban Thờ Thần Tài Theo Phong Thủy Lập Bàn Thờ Thần Tài Cần Những Gì & Cách Bài Trí Để Có Tài Lộc Hỏi Chuyên Gia Phong Thủy Cách Đặt Ông Thần Tài Trong Nhà Cách Đặt Bàn Thờ Thần Tài Theo Tuổi Chuẩn Phong Thủy Nhất
LĂNG MỘ ĐÁ ANH QUÂN giới thiệu Sắm lễ cầu siêu? Bài lễ cầu siêu cho các vong và hài nhi gồm những gì? ,
VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.374)
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại khu vườn ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Rồi gia chủ Cấp Cô Độc (Anathapindika) đi đến, sau khi đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Cấp Cô Độc (Anathapindika).
Này Gia chủ, có năm lý do để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ nhất để gầy dựng tài sản.
Lại nữa, này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Vị này làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.
Này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Các tai họa để trở thành trắng tay bị chặn đứng và vị ấy giữ gìn tài sản được an toàn cho vị ấy. Đây là lý do thứ ba để gầy dựng tài sản.
Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư Thiên. Đây là lý do thứ tư để gầy dựng tài sản.
Này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn… Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa môn, Bà la môn. Sự cúng dường tối thượng này đưa đến phước báu vô lượng ở cõi người, cõi trời. Đây là lý do thứ năm để gầy dựng tài sản.
(Chắp tay đọc)
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Đệ tử con đã được hiểu lời đức Phật dạy trong bài kinh “LÀM GIÀU”, làm các việc công đức đúng Pháp, hồi hướng cho vong linh thì vong linh được hưởng, từ đó công việc làm ăn của gia chủ cũng tốt dần lên, khiến được giàu có.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Quỳ gối chắp tay khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
(HẾT NGÀY 1 của TUẦN 7)
- TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 7: NGHE PHÁP
(Cắm hương, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, được cùng với chúng con nghe giảng Phật Pháp.
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
Nghe Pháp
(Di chuyển đến vị trí nghe Pháp, chắp tay khấn bạch)
Chắp tay khấn: Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Chúng con xin thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh cùng chúng con nghe giảng Phật Pháp. (1 xá)
* Hướng Dẫn Nghe Pháp:
Nghe Pháp theo hướng dẫn tại mục 4 phần A.
(Nghe Pháp xong, tắt màn hình, ngồi yên mặt hướng lên hư không tại nơi ngồi nghe Pháp, chắp tay đọc)
(Chắp tay đọc)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Một người đại diện khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
(HẾT TUẦN 4)
TUẦN THỨ 5
- NGÀY 1: TỤNG KINH
(Cắm hương xong, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
(Ngồi đọc kinh)
CHUYỆN NGẠ QUỶ NGOẠI BỨC TƯỜNG
(Kinh Tạng Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh 3, Ngạ Quỷ Sự,
Phẩm Con Rắn, Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường)
Bậc Đạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Vương Xá (Ràjagaha).
Chín mươi hai kiếp về trước, có một kinh thành tên là Kàsipuri. Vua Jayasena ngự trị nơi ấy có chánh hậu là Sirimà, vương tử Phất Sa (Phussa) chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, tức là đức Cổ Phật thứ mười tám sau đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara).
Bấy giờ, Đại Vương Jayasena sinh tâm ngã mạn, suy nghĩ: “Vì vương tử của ta sinh ra đời làm đức Phật, đã thành tựu đại sự xuất thế, chỉ riêng ta có Phật, chỉ riêng ta có Pháp, chỉ riêng ta có Tăng chúng”. Do đó nhà vua luôn luôn hầu cận bên đức Phật và không dành cơ hội cho kẻ khác.
Ba hoàng đệ của đức Thế Tôn ấy do bà mẹ khác sinh ra, bèn suy nghĩ: “Quả thật chư Phật ra đời vì lợi ích của quần sinh khắp thế gian này, chứ không phải vì riêng một ai. Nay phụ vương ta không dành cơ hội cho người khác. Làm thế nào ta có thể phụng sự đức Thế Tôn và Tăng chúng? Nào chúng ta hãy thi hành một chiến thuật”.
Thế là chư vị gây rối tại vùng biên địa. Sau đó khi nhà vua nghe tin về vụ rối loạn này, liền phái ba vương tử đi bình định biên thùy. Ba vị tuân lệnh và khi trở về, nhà vua hài lòng ban chư vị một điều ước, phán bảo:
– Hãy chọn thứ gì các vương nhi muốn.
Ba vị tâu:
– Chúng thần nhi ước mong hầu cận đức Thế Tôn.
Nhà vua từ chối, phán:
– Hãy chọn thứ khác.
Ba vị tâu:
– Chúng thần nhi không màng thứ gì khác cả.
Nhà vua lại phán:
– Thôi được, các vương nhi có quyền chọn theo ý muốn.
Ba vị đến gần đức Thế Tôn và thưa:
– Bạch Thế Tôn, chúng đệ tử ước mong phụng sự đức Thế Tôn ba tháng. Xin đức Thế Tôn hoan hỷ an cư ba tháng mưa với chúng đệ tử.
Đức Thế Tôn chấp thuận. Ba vị hoàng tử tự thân hành gửi một thông điệp đến cho người được chỉ định trông coi tỉnh nọ, bảo: “Trong suốt ba tháng này, chúng ta cần phục vụ đức Thế Tôn, bắt đầu bằng cách xây một tinh xá, và cung cấp đủ mọi thứ cần thiết”.
Vào dịp ấy, có một số người bất mãn trong lòng, sau khi ngăn cản những vật đóng góp, chính họ lại ăn các phẩm vật và nổi lửa đốt trai đường.
Sau khi ba vương tử cùng đoàn tùy tùng đã cúng dường đức Thế Tôn và từ giã Ngài xong, ba vị đi thẳng đến phụ vương.
Khi trở về, đức Thế Tôn đắc Niết-bàn vô dư y, ba vương tử và người cai quản tỉnh ấy, vị thủ kho báu hoàng gia dần dần theo thời gian đều từ trần và cùng với quần chúng ở đó được tái sanh thiên giới, còn số người bất mãn trong tâm bị tái sanh địa ngục.
Chín mươi hai kiếp trôi qua như vậy, trong lúc hai hạng người trên cứ lần lượt tái sanh từ thiên giới này đến thiên giới khác và từ địa ngục này đến địa ngục khác. Rồi đến hiền kiếp này, vào thời đức Thế Tôn Kassapa, đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.
Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: “Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi”. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức Phật Kassapa, các vị ấy hỏi:
– Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy?
Đức Thế Tôn đáp:
– Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Gotama. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên là Bimbisàra, trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó chư vị sẽ được an lạc.
Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: “Ngày mai chư vị sẽ được an lạc”.
Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn (Gotama) giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Ma-kiệt-đà (Magadha) trong các gia đình Bà-la-môn.
Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Gayà, người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bình Sa (Bimbisàra); người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Visàkha; vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dhammadinnà, còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.
Bấy giờ đức Thế Tôn Gotama giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Ba-la-nại (Baranasi) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh, và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Ràjagaha và an trú vua Bimbisàra vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà-la-môn và cư sĩ ở tại xứ Ưng-già (Anga) và Magadha.
Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: “Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước”. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: “Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?”. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.
Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:
– Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.
Đức Thế Tôn đáp:
– Thưa Đại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Đại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Đại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Đại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: “Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta”. Hôm qua, khi Đại vương dâng lễ, Đại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.
Nhà vua hỏi:
– Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?
Đức Phật đáp:
– Thưa Đại vương, quả thật chúng có thể nhận.
Nhà vua nói:
– Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.
Đức Thế Tôn nhận lời.
Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: “Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó”, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.
Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: “Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.
Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.
Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó, liền xuất hiện cho chúng các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Đức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.
Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.
- Bọn chúng đứng kia, ngoài bức tường,
Những nơi trống trải, ngã tư đường,
Chúng đang đứng ở ngoài song cửa,
Khi đã về nhà tại cố hương.
2.Dù tràn trề ẩm thực liên miên
Đủ loại cứng mềm được dọn lên,
Cũng chẳng có ai cần bọn chúng,
Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên.
3. Những người lân mẫn, lắm tình thương
Đúng lúc đem cho đám họ hàng,
Các thức cao lương, đồ ẩm thực,
Với lời cầu nguyện: “Để dành phần
Lễ này cho đám người thân thuộc,
Mong các họ hàng được phước ân”.
4. Và các đám này đã đến đây,
Các vong linh của họ hàng này,
Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng,
Các thực phẩm đều phong phú thay.
5. Chúng cầu: “Trường thọ các người thân,
Nhờ các vị, ta được hưởng ân,
Lòng quý trọng ta đà biểu lộ,
Người cho chẳng thiếu quả dành phần”.
6. Chốn kia không có cấy cày đâu,
Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào,
Buôn bán như đây đều chẳng có,
Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
7. Bên kia thế giới các vong linh
Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh,
Như nước đổ từ trên núi xuống,
Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
8. Giống như tất cả các dòng sông,
Chảy xuống đổ đầy cả đại dương,
Cũng vậy, những gì người bố thí,
Từ đây nuôi sống các vong nhân.
9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà
Trước đã cho ta, giúp đỡ ta,
Mong mọi người ban phần ngạ quỷ,
Nhớ công họ tạo thuở xưa xa.
10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
Thương tiếc, than van chẳng ích gì,
Không lợi gì cho người quá cố,
Khi thân nhân giữ thói lề kia.
11. Song lễ vật này được cúng dâng
Khéo đem an trú ở chư Tăng,
Quả này hiện tại và sau nữa,
Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
12. Đây là nghĩa vụ của thân nhân
Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng,
Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực,
Người làm công đức lớn vô ngần.
Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người đã đắc Pháp nhãn do tri kiến sanh khởi từ sự kiện tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Tâm họ đầy xúc động vì được tán thán và họ càng nỗ lực tinh cần. Ngày hôm sau đức Thế Tôn cũng dạy chư Thiên và loài Người bài kinh “Ngoài Bức Tường” ấy. Do vậy suốt bảy ngày đều diễn ra sự đắc Pháp nhãn như trên.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
(Chắp tay đọc)
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Đệ tử con đã được hiểu lời đức Phật dạy trong bài kinh “CHUYỆN NGẠ QUỶ NGOẠI BỨC TƯỜNG”, vua Bình Sa cúng dường Tam Bảo, cúng dường vật thực hộ độ cho chư Tăng và đem hồi hướng phúc báu cúng dường đó đến cho các vong linh khiến cho các vong linh đã được tăng trưởng phúc lành, tiêu trừ nghiệp chướng, được sinh lên cõi trời.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Quỳ gối chắp tay khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
(HẾT NGÀY 1 của TUẦN 7)
- TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 7: NGHE PHÁP
(Cắm hương, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, được cùng với chúng con nghe giảng Phật Pháp.
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
Nghe Pháp
(Di chuyển đến vị trí nghe Pháp, chắp tay khấn bạch)
Chắp tay khấn: Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Chúng con xin thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh cùng chúng con nghe giảng Phật Pháp. (1 xá)
* Hướng Dẫn Nghe Pháp:
Nghe Pháp theo hướng dẫn tại mục 4 phần A.
(Nghe Pháp xong, tắt màn hình, ngồi yên mặt hướng lên hư không tại nơi ngồi nghe Pháp, chắp tay đọc)
(Chắp tay đọc)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Một người đại diện khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
(HẾT TUẦN 5)
TUẦN THỨ 6
- NGÀY 1: TỤNG KINH
(Cắm hương xong, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
(Ngồi đọc kinh)
KINH NHÂN QUẢ
Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một nghìn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đỉnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có Tam cương, Ngũ thường rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên quả báo gì khiến nên như thế? Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc!
Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử:
– Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ. Tất cả nam nữ ở thế gian, giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước đến nay mà cảm quả báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ việc sát hại mà phóng sinh, thứ tư cần ăn chay bố thí, mới có thể gieo giống ruộng phước về sau.
Phật liền nói bài kệ nhân quả rằng:
1. Xưa tin nhân quả đạo lành
Đúc chuông tô tượng lòng thành chứa chan
Nay sinh hưởng phúc làm quan
Vinh hoa phú quý giàu sang ai bì.
2. Đời xưa xây cống sửa cầu
Quét đường dọn ngõ chẳng dầu chẳng e
Nay thì lên ngựa xuống xe
Đường mây thanh thản mái che mát đầu.
3. Kiếp nay ăn mặc sang giàu
Nhiễu, lon, gấm vóc đủ màu thỏa thê
Là vì kiếp trước lo bề
Cúng dường Tam Bảo áo đề mũ ban.
4. Kiếp nay tiền của đề huề,
Dung nhan đoan chính nhiều bề tốt tươi,
Vì xưa tâm đức thương người,
Đỡ nghèo giúp khó vẹn mười thiện căn.
5. Kiếp nay gác tía lầu son,
Nhà cao cửa rộng vuông tròn trước sau,
Vì xưa tiến gạo, cúng dầu,
Đưa vào Tam Bảo đề cầu phúc lai.
6. Kiếp xưa xây quán dựng trường,
Trồng cây, đào giếng, sửa đường, dọn ao,
Đời nay khỏe mạnh thọ cao,
Hồng da trắng tóc hạc nào dám đương.
7. Đời nay diện mạo đoan trang,
Hình dung hòa dịu thế gian mấy người,
Bởi xưa mua hái hoa tươi,
Cúng dường Tam Bảo vẹn mười thanh cao.
8. Kiếp nay linh lợi sáng tinh,
Làm hay học giỏi thông minh khác thường,
Vì xưa dọn dẹp đèn hương,
Tụng kinh niệm Phật là đường quả lai.
9. Kiếp xưa Tam Bảo cúng dường,
Hoành phi, câu đối cùng hàng phướn phan,
Kiếp nay hạnh phúc chan chan,
Vợ chồng sung túc hòa an trọn đời.
10. Kiếp nay cha mẹ song toàn,
Anh em hòa hợp chứa chan sum vầy,
Bởi xưa yêu mẹ quý Thầy,
Giúp người cô độc thương bầy trẻ côi.
11. Đời xưa thương xót chúng sinh,
Phóng sinh thả cá cứu tình si mê,
Kiếp nay con cháu đề huề,
Hưởng thường ngũ phúc thọ bề như non.
12. Đời xưa cậy sức tú bà,
Coi thường khinh miệt chồng là rác rơm,
Kiếp nay quả phụ cô đơn,
Ruột rầu đứt đoạn nguồn cơn não lòng.
13. Kiếp nay chịu cảnh nô tỳ,
Hầu trên hạ dưới bù trì chủ nhân,
Bởi xưa bội nghĩa vong ân,
Qua sông phụ sóng quả thân tôi đòi.
14. Kiếp nay mắt sáng uy nghi,
Dung nhan thông tuệ là vì làm sao,
Do xưa chẳng quản tiền hao,
Dầu đèn, nến sáp cúng vào Thế Tôn.
15. Đời xưa chửi mẹ mắng cha,
Rủa lời tục tĩu cùng là ác tâm,
Nay thì mồm méo miệng câm,
Rụng răng thụt lưỡi tính hâm tỷ ngàn.
16. Kiếp xưa bài lễ bác kinh,
Cười người tin Phật chê tình đạo chung,
Đời nay nghẹo cổ gù lưng,
Gối chùn mắt lác trông chừng lừa con.
17. Kiếp nay làm giống ngựa trâu,
Đem thân cày kéo vọt đâu đã chừa,
Bởi xưa không trả nợ xưa,
Vay mà ăn quỵt làm bừa bõ không?
18. Kiếp nay khỏe mạnh hào hùng,
Thân hình tráng kiện nhan dung phi thường,
Bởi xưa tâm đức nhiều phương,
Giúp người tật bệnh tìm đường thuốc thang.
19. Đời nay khổ cực lang thang,
Chết không đất táng sống không cửa nhà,
Bởi xưa bắt nạt người ta,
Lấn già, hiếp trẻ nộ bà rẻ ông.
20. Kiếp xưa giảng pháp in kinh,
Vô lượng công đức vào mình ấy vay,
Cúng dường Tam Bảo vật tài,
Nay phần phúc lộc hưởng hoài cao sang.
21. Đời nay Phúc Lộc Thọ toàn,
Gia đình êm ấm thần quan nể vì,
Bởi xưa kính lão mến nhi,
Trọng hiền, yêu thiện vậy thì mới nên.
22. Kiếp xưa kính trọng Tăng Ni,
Giúp người đơn chiếc đỡ thì gian nan,
Nay thì vợ thảo dâu ngoan,
Cháu con tôn kính mọi đàng hiển vinh.
23. Đời nay con cháu khó nuôi,
Chết non quặt quẹo chẳng xuôi bề nào,
Vì xưa thù hận dâng cao,
Mắt giương tóc dựng chân cào tay giơ.
24. Kiếp nay cô độc suốt đời,
Năm canh vò võ ai thời nhìn trông,
Bởi xưa phạm lỗi tà dâm,
Ngó trông, lén lút mà xâm nhà người.
25. Đời xưa xem sách dâm thư,
Bói nhằng phán cuội tính hư mọi đàng,
Kiếp này mù mắt lang thang,
Mó sờ, rờ rẫm biết đàng nào đi.
26. Kiếp xưa đâm thọc chuyện người,
Khua môi múa lưỡi làm người nát tan,
Đời nay sù sụ ho khan,
Dãi đờm hôi hám máu chan dầm dề.
27. Kiếp xưa Phật Pháp không tin,
Báng đường Nhân quả, phỉ kinh Luân hồi,
Kiếp nay điếc đặc than ôi,
Mũi mồm ngơ ngáo ai dôi chuyện mình.
28. Đời xưa ngược đãi súc sinh,
Đánh, lôi, giết, chẳng nể tình si mê,
Kiếp này chốc ghẻ nan y,
Hắc lào, phong hủi ê chề hám hôi.
29. Kiếp xưa ganh ghét người tài,
Ác tâm hãm hại úm chài kẻ hay,
Nay bệnh bướu cổ mề đay,
Thân hình hôi hám ruồi bay hàng đàn.
30. Đời xưa lắm sự dèm pha,
Gươm đưa hai lưỡi giáo khoa hai đầu,
Kiếp này sứt miệng răng vâu,
Nói lời quang quác ai hầu muốn nghe.
31. Kiếp xưa đánh đập Mẹ Cha,
Hung hăng bất hiếu như là sài lang,
Đời nay dị tật phải mang,
Tay chân teo quắp rõ ràng thảm thương.
32. Ngày xưa đập quán phá đường,
Hủy cầu lấp cống xem thường thiện tâm,
Đời nay què cụt hai chân,
Đi bằng đôi nạng muôn phần xót xa.
33. Ngày xưa thấy kẻ cháy nhà,
Thấy người vấp ngã cười mà đứng xem,
Ngày nay tật ách kiêng khem,
Ốm o yếu đuối lại kèm cô đơn.
34. Kiếp xưa gạt kẻ mù lòa,
Lừa người điếc lác để mà lợi thân,
Nay làm chó ngựa khổ tâm,
Làm loài thú vật trả dần tội xưa.
35. Thấy người nguy hiểm làm ngơ,
Tai ương, cơ nhỡ lại chờ xem chơi,
Nay thì tật bệnh suốt đời,
Một mình thui thủi kêu trời ích chi.
36. Kiếp xưa nói xấu người ta,
Tự dưng gắp lửa bỏ qua tay người,
Nay nhầm thuốc độc chết tươi,
Dãi đờm máu mủ eo ơi thảm buồn.
37. Kiếp nay xương vẹo lưng gù,
Thân hình xấu xí hôi mù than ôi,
Xưa khinh đầy tớ mất rồi,
Đọa hành con ở xử tồi kẻ nô.
38. Kiếp xưa buôn bán hại người,
Lợi to mình hưởng chỉ thời biết ta,
Nay thì tự chết trầm kha,
Treo thân lè lưỡi trông mà sởn gai.
39. Kiếp xưa ngăn kẻ đi chùa,
Báng chê Tam Bảo nhớt đùa thiện nhân,
Nay thì sét đánh tung thân,
Lửa thiêu khét thịt điện tần khô xương.
40. Ngày xưa kết oán gieo thù,
Hung hăng đâm chém lộn mù xát xô,
Ngày nay rắn cắn, hổ vồ,
Mèo điên, chó dại hết đồ hung hăng.
41. Đời xưa chê kẻ ăn mày,
Cười người nghèo khó nhạo bầy tha hương,
Ngày nay chết rục ngoài đường,
Ruồi bâu kiến đục hết phường vô nhân.
42. Kiếp xưa bạc ác vợ con,
Chân dần tay tát mồm còn lu loa,
Ngày nay cô độc đến già,
Chó mèo cũng ghét lợn gà cũng khinh.
Nam mô Khai Chính Kiến Bồ Tát. (3 lần)
(Chắp tay đọc)
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Đệ tử con đã được hiểu lời đức Phật dạy trong kinh “NHÂN QUẢ”, đức Phật dạy rằng: Tất cả mọi sự việc ở thế gian, đều có nguyên nhân xuất phát từ tâm, nếu các việc xuất phát từ tâm thiện lành, thì có kết quả hạnh phúc, nếu các việc xuất phát từ tâm xấu ác, thì có kết quả đau khổ.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Quỳ gối chắp tay khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
(HẾT NGÀY 1 của TUẦN 6)
- TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 7: NGHE PHÁP
(Cắm hương, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, được cùng với chúng con nghe giảng Phật Pháp.
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
Nghe Pháp
(Di chuyển đến vị trí nghe Pháp, chắp tay khấn bạch)
Chắp tay khấn: Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Chúng con xin thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh cùng chúng con nghe giảng Phật Pháp. (1 xá)
* Hướng Dẫn Nghe Pháp:
Nghe Pháp theo hướng dẫn tại mục 4 phần A.
(Nghe Pháp xong, tắt màn hình, ngồi yên mặt hướng lên hư không tại nơi ngồi nghe Pháp, chắp tay đọc)
(Chắp tay đọc)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Một người đại diện khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
(HẾT TUẦN 6)
TUẦN THỨ 7
- NGÀY 1: TỤNG KINH
(Cắm hương xong, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo về , để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
(Ngồi đọc kinh)
KINH ĐIỀM LÀNH TỐI THƯỢNG
(Mangala Sutta)
(Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya), Tiểu Tụng (Khuddakapāthapali), bài kinh số 5)
Chính tôi được nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú tại nước Xá Vệ (Sàvatthi), ở Vườn Kỳ Đà (Jetavana), khu vườn ông Cấp Cô Độc (Anàthapindika). Rồi một Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng, đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ xong liền đứng sang một bên cung kính bạch Đức Thế Tôn với bài kệ:
Nhiều Thiên tử và người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi chờ,
Để sống đời an lạc,
Xin Ngài hãy nói lên,
Về điềm lành tối thượng.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
1. Không thân cận kẻ ngu,
Nên gần gũi bậc Trí,
Tôn kính người Hiền Thiện,
Là điềm lành tối thượng.
2. Sống trong môi trường tốt,
Để tạo tác nhân lành,
Chân chính hướng thiện tâm,
Là điềm lành tối thượng.
3. Lắng nghe siêng học hỏi,
Chăm chỉ huấn luyện nghề,
Nói những lời chân thật,
Là điềm lành tối thượng.
4. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Yêu thương gia đình mình,
Làm những nghề lành thiện,
Là điềm lành tối thượng.
5. Bố thí, làm việc thiện,
Săn sóc tới bà con,
Không làm các việc ác,
Là điềm lành tối thượng.
6. Chấm dứt các tội lỗi,
Không đam mê nghiện ngập,
Tinh cần làm việc tốt,
Là điềm lành tối thượng.
7. Luôn khiêm cung lễ độ,
Biết đủ và biết ơn,
Luôn nghe giảng Chính Pháp,
Là điềm lành tối thượng.
8. Kiên nhẫn để phục thiện,
Thường đến gặp chư Tăng,
Đàm luận và thỉnh Pháp,
Là điềm lành tối thượng.
9. Mong cầu tăng trí tuệ:
Khổ này do nhân gì?
Cách diệt khổ ra sao?
Tìm hiểu Tứ Thánh Đế,
Là điềm lành tối thượng.
10. Khi xúc chạm việc đời,
Do được hiểu, không sầu,
An nhiên, không phiền não,
Là điềm lành tối thượng.
Ai sống được như thế,
Không chỗ nào thất bại,
Đến đâu cũng an lành,
Luôn luôn được hạnh phúc.
Vị Thiên tử nghe xong, đảnh lễ Đức Thế Tôn và hoan hỷ phụng hành.
Nam Mô Độ Nhân Sư Bồ Tát. (3 lần)
(Chắp tay đọc)
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Đệ tử con đã được hiểu lời đức Phật dạy trong kinh “ĐIỀM LÀNH TỐI THƯỢNG”, đức Phật dạy cho chúng con cách nhận biết về điềm lành ngay trong tâm của chúng con, nếu chúng con có tâm ưa muốn phát triển đức tính trí tuệ, thì điều hạnh phúc đang chờ đón chúng con. Bài kinh này, đã xoá đi sự mê tín vào các điềm báo sai trái của chúng con.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Quỳ gối chắp tay khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
(HẾT NGÀY 1 của TUẦN 7)
- TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 7: NGHE PHÁP
(Cắm hương, quỳ gối, chắp tay khấn)
Văn Khấn
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con. Con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh, Thổ Địa, đẳng đẳng chư Thần, con cũng xin nương oai lực Tam Bảo, hạnh nguyện độ sinh và độ cho vong linh của chư Tăng thỉnh mời tất cả chư vị vong linh: ……………. về đây theo chứng giám cho lòng thành của con. Hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử con là… ở tại… chúng con xin thành kính dâng vật thực cúng dường tới chư Phật, chúng con biết chư Phật không thọ thực, nhưng chúng con cũng xin thỉnh chư Phật chứng minh cho lòng thành kính của chúng con, sau chúng con xin dâng cúng vật thực này tới cho chư Thiên, chư Thần, thừa oai lực Phật xin phổ tế tới cho các vong linh: ………………. được về đây thọ thực. Con đã cúng dường Tam Bảo để hồi hướng cho vong linh, hôm nay con xin tu tập theo phát nguyện 49 ngày để hồi hướng công đức cho các vong linh và hồi hướng cho gia đình chúng con mọi sự được hướng thiện an ổn.
Chúng con xin nhất tâm cung thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh mà chúng con đã mời, được cùng với chúng con nghe giảng Phật Pháp.
Lễ Tán Phật
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức,
Tướng đẹp sáng ngời tựa trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)
Tán Pháp
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
Nghe Pháp
(Di chuyển đến vị trí nghe Pháp, chắp tay khấn bạch)
Chắp tay khấn: Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! Chúng con xin thỉnh chư Thiên, chư Thần cùng các vong linh cùng chúng con nghe giảng Phật Pháp. (1 xá)
* Hướng Dẫn Nghe Pháp:
Nghe Pháp theo hướng dẫn tại mục 4 phần A.
(Nghe Pháp xong, tắt màn hình, ngồi yên mặt hướng lên hư không tại nơi ngồi nghe Pháp, chắp tay đọc)
(Chắp tay đọc)
Mười Hạnh Phổ Hiền
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập theo mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát:
Một là kính lễ chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo học Phật
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
(Một người đại diện khấn)
Phục Nguyện
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
Nam mô Thường Gia Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát! (3 lần)
(Tất cả mọi người cùng chắp tay)
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm Vô Thượng. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ, hoặc xá nếu ngồi)
HẾT
--- Bài cũ hơn ---
Cúng Cô Hồn Rằm Tháng 7 Sai Cách, Gia Chủ Sẽ Vô Tình Rước Họa Vào Nhà Thủ Tục Chuyển Nhà Lấy Ngày Đúng Chuẩn Cách Cúng Rằm Tháng 7 – Việt Lạc Số Cách Làm Món Chay Ngon Cúng Rằm Tháng 7 Đồ Cúng Cho Rằm Tháng 7