Top 12 # Xem Nhiều Nhất Van Khan Ngay Dau Nam Moi Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Herodota.com

Văn Khấn Lễ Tạ Mừng Năm Mới Van Khan Cung Le Ta Mung Nam Moi Doc

Theo truyền thống xưa, lễ Tạ năm mới được tiến hành khi kết thúc Tết, còn gọi là lễ Hoá Vàng.

Theo truyền thống xưa, lễ Tạ năm mới được tiến hành khi kết thúc Tết, còn gọi là lễ Hoá Vàng được tiến hành vào ngày mồng ba Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết.

Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chứ Phật, Chư phật mười phương

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy Ngài Đương niên, ngài Bản cảnh Thành hoàng, các ngài Thổ địa,Táo quân, Long Mạch, Tôn thần.

– Con kính lạy các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, nội ngoại Tiên linh.

Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….

Ngụ tại:…………………………………………………………..

Hôm nay là ngày mồng 3 tháng giêng năm………….

Tín chủ con thành tâm sắp sửa hương hoa nước quả kim ngân vàng bạc, phẩm vật trà tửu dâng lên trước án, kính cẩn thưa trình:

Tiệc xuân đã mãn, Nguyên Đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngân, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn Tiên linh trở về âm giới.

Kính xin phù hộ độ trì cho con cháu được chừ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng

Chúng con lễ bạc tâm thành, nhất tâm kính lễ, cúi xin phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Cây nêu ngày Tết và nghi thức thờ cúng tổ tiên

Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: “bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu”… có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ.

Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là “hạ nêu” phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi”.

Tại sao một mỹ tục đậm đà bản sắc dân tộc với ý nghĩa tốt đẹp như thế, đến nay lại không thấy nữa? Họa chăng chỉ còn trong sách báo cùng trong thơ văn với câu đối Tết: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh” .

Cũng theo ý nghĩa trừ tà ấy, những nhà theo đạo Phật treo lên cây nêu nào là khánh, là chuông nhà Phật để cho biết ở đây có Phật Bà Quan Âm độ trì, quỷ dữ phải tránh xa, để gia đình được bình an. Có lẽ do ý nghĩa mê tín, trừ ma quỷ nên khi Tấy đến, rồi Cách mạng nổi lên, dần dần người ra bỏ tục trồng nêu.

* Thờ cúng tổ tiên một cách hệ thống đã dần dần trở thành quốc đạo

Văn hóa phương Tây khác với văn hóa phương Đông ở nhiều điểm, trong đó phương Tây không thờ cúng tổ tiên, không để bàn thờ tổ tiên trong nhà; trong khi đó các dân tộc phương Đông đều có nhiều hình thức thờ cúng, tưởng nhớ đến người chết như người Ai Cập trong các ngôi mộ cổ, hay bàn thờ Tổ tiên trong các dân tộc Á Đông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên.

Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ họ một cách trang trọng, cũng nhiều nhà thờ họ đủ đồ thờ trang trọng như thờ Thần thờ Thánh. Và khi cúng tế, người ta luôn cầu âm đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám ma hay khi gặp hoạn nạn, hay khi đi thi, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên. Việc hiện nay hầu hết các cặp cô dâu chú rể mới đều làm lễ vu quy hay nghinh hôn, trước bàn thờ gia tiên cũng là một điểm rất độc đáo của văn hóa VN.

Không những thế, hệ thống thờ tổ tiên của vũ trụ, tức Ông tạo hóa hay Ông trời, thời phong kiến chỉ có vua mới được thờ cúng ở đàn Nam Giao, giống như bên Trung Hoa, thì nay ở Trung và nhất ở Nam Bộ nhiều nhà có bàn Thiên ở ngoài trờ để thờ trời. Tổ tiên của dân tộc là vua Hùng cũng được thờ, và nay trở thành quốc lễ. Ngoài ra, còn thờ các tiền nhân anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung…

Ngày nay, nhất là sau Cộng đồng Vatincan II, thiên chúa giáo vốn rất nghiêm khắc với việc thờ tổ tiên, bây giờ đã rộng rãi, các giáo dân vận có thể lập bàn thờ gia tiên. Mọi người VN hiện nay đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức vô hình thiêng của con người.

Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không coi trọng thờ tổ tiên với truyền thống lâu đời và đã trở thành hệ thống. Đó cũng là nét riêng của dân tộc VN vậy! Thờ tổ tiên chính là quốc đạo của người VN vậy!

TS NGUYỄN NHÃ

Phong Tục Thờ Cúng Trong Ngày Tết

Tết Nguyên đán là tiết lễ đầu tiên của năm , bắt đầu từ lúc giao thừa với lễ trừ tịch .

Nguyên là bắt đầu . Đán là buổi sớm mai . Tết Nguyên Đán tức là Tết bắt đầu năm , mở đầu cho một năm mới với mọi cảnh vật đều mới mẻ đón Xuân sang .

LỄ TRỪ TỊCH

Lễ trừ tịch của người Trung Quốc còn là lễ khu trừ ma quỷ.Vào ngày trừ tịch dùng 120 trẻ con trạc 9, 10 tuổi mặc áo thâm, đội mũ đỏ, cầm trống vừa đi đường đánh để khu trừ ma quỷ, do đó có danh từ trừ tịch.Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.

CÚNG AI TRONG LỄ GIAO THỪA

Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục có viết : Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới.

Cúng tế cốt ở tâm thành, và lễ cúng vào giữa nửa đêm nên đượm vẻ thần bí trang nghiêm. Cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương thay đức Ngọc Hoàng để coi sóc nhân gian trong một năm cho đến giờ phút giao thừa sang năm. Lễ trừ tịch bao hàm một ý nghĩa trọng đại tống cựu nghinh tân nên lễ được cử hành rất trịnh trọng từ tư gia tới các đình chùa.

Những năm về trước, trong giờ phút này, chuông trống đánh vang, pháo nổ không ngớt, truyền từ nhà nọ sang nhà kia, khắp kẻ chợ nhà quê.

SỬA LỄ GIAO THỪA

Tại các đình miếu cũng như tại các tư gia lễ giao thừa đều cúng mặn.Các ông thủ từ lo ở đình miếu,còn tại các tư gia do người gia trưởng đảm nhiệm.Xưa kia người ta cúng giao thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc thủ từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta cũng cúng giao thừa ở thôn ở xóm nữa.

Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra.Trên hương án có đỉnh trầm hương hay bình hương.Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi thêm cỗ mũ của Đại vương hành khiển.

Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ Thành Hoàng hoặc vị phúc thần tại vị nữa. Các chùa chiền cũng có lễ cúng giao thừa, nhưng lễ vật là đồ chay, và đồng thời với lễ giao thừa nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Đức Ông tại chùa.

Ở các tư gia, các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc ở trước của nhà đối với những nhà không có sân. Ngày nay ở thôn quê rất ít nơi còn cúng lễ giao thừa ở các thôn xóm, ngoài lễ cúng tại đình đền.Và ở các tư gia tuy vẫn cúng giao thừa nhưng bàn thờ thật là đơn giản.

ĐẠI VƯƠNG HÀNH KHIỂN VÀ PHÁN QUAN

Có mười hai vị đại vương,mỗi ông cai trị một năm cõi nhân gian là Thập nhị hành khiển vương hiệu tính theo thập nhị chi, bắt đầu từ năm Tý, cuối cùng là năm Hợi.Hết năm Hợi lại quay trở lại năm Tý với Đại vương hành khiển của mười hai năm trước.

Các vị đại vương này còn được gọi là đương nhiên chi thần, mỗi vị có trách nhiệm cai trị thế gian trong một năm, xem xét mọi việc hay dở của từng người, từng gia đinh,từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công luận tội, tâu lên Thượng đế. Mỗi vị đại vương hành khiển có một vị phán quan giúp việc.

Trong khi làm lễ cúng Đức đương niên đại vương hành khiển người ta khấn theo đức Thổ thần và Thành Hoàng vì khi đức đại vương hành khiển đã giáng lâm thì Thổ thần và Thành Hoàng có nhiệm vụ nghênh tiếp do đó cũng được phối hưởng lễ vật.

LỄ CÚNG THỔ CÔNG

Sau khi cùng giao thừa xong, các gia chủ cúng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà, thường được gọi là “Đệ nhất gia chi chủ”.Lễ vật cũng tương tự như cúng giao thừa nghĩa là gồm trầu rượu,nước,đèn nhang, vàng bạc, hoa quả cùng các thực phẩm xôi gà, bánh, mứt v.v …

LỄ CÚNG GIA TIÊN

Chiều ba mươi Tết sau khi sửa soạn xong xuôi người ta làm lễ cúng gia tiên sau đó đèn nhang phải giữ thắp suốt mấy ngày Tết cho tới khi hoá vàng.

Cùng với cúng gia tiên ta phải cúng Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên được về đón Tết cùng con cháu.

Sociale Gathekas Van Inayat Khan

TRANSCRIPT

1

LESSEN VAN HAZRAT INAYAT KHAN

‘DE NEDERLANDSTALIGE SOCIALE GATHEKAS’

2

INNERLIJKE LERINGEN VAN SOEFI INAYAT KHAN

TOT DE ENE

DE VOLMAAKTHEID VAN LIEFDE

HARMONIE EN SCHOONHEID

HET ENIGE WEZEN

VERENIGD MET ALLE VERLICHTE ZIELEN

DIE DE BELICHAMING VORMEN VAN DE MEESTER

DE GEEST VAN LEIDING

3

Voorwoord Het is een genoegen voor het Dutch Publications Committee (DPC) om de Sociale Gathekas in een nieuwe vertaling aan te kunnen bieden. De Sociale Gathekas onderscheiden zich van de Religieuze Gathekas, die vooral religieuze themas behandelen, en die Gathekas die voor-namelijk over de voorbereiding voor inwijding gaan, door een groot aantal sociale- zowel als spirituele- onderwerpen te behandelen. Zij bevatten toespraken van Hazrat Inayat Khan gegeven in de jaren 1922 1924 en werden door het Biographical Department gebundeld met de bedoeling dat zij zouden dienen als inleiding tot verdere studie in het Universeel Soefisme. Als musicus gaf Hazrat Inayat Khan graag muzikale namen aan zijn verzamelde leringen, zoals: Gatha, Githa, Sangatha, Sangitha, en Gatheka betekent liedboek. In deze bundel van 55 teksten vinden we uitleggingen, – over wat het Soefisme is (nrs. 1, 6, 7, 28), – over de activiteit van de Broederschap (nrs. 2, 13, 14, 24, 40), – over pozie en muziek (nrs. 21, 22, 23, 25, 37, 41 en 55), – en over geestelijke ontwikkeling (nrs. 3, 4, 5, 10, 16, 17, 29, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 38, 39, 42, 43, 44, 45, 46, 48, 49, 50, 51, 52, 53). Het is helaas niet bekend wie de bundel samenstelde, het is een veelheid van themas. een rijke collectie. Wij zijn de vertalers, die vrijwillig hun tijd en aandacht aan deze vertalingen hebben gege-ven, zeer dankbaar. Moge de Soefi-boodschap zich verspreiden zoals Moershid dit gewenst heeft! Dutch Publications Committee, bewerking 2011 Algemeen Secretariaat Soefi Beweging Nederland Anna Paulownastraat 78, 2518 BJ Den Haag sufiap@hetnet.nl

4

INHOUDSOPGAVE pagina: LESSEN VAN HAZRAT INYAT KHAN De nederlandstalige Sociale Gathekas 1 INNERLIJKE LERINGEN VAN SOEFI INAYAT KHAN 2 VOORWOORD 3 INHOUDSOPGAVE 4 1 SOEFISME IS GEEN PACIFISME 6 2 ONS WERK VOOR DE BROEDERSCHAP 8 3 OPTIMISME EN PESSIMISME 9 4 HARMONIE 11 5 GELUK 14 6 DE SOEFI BOODSCHAP VOOR DE WERELD 16 7 SOEFISME 18 8 WAT DE WERELD VANDAAG NODIG HEEFT 20 9 LIBERALISME EN CONSERVATISME 22 10 DE REIS NAAR HET EINDDOEL 24 11 en 12 WEDEROPBOUW 29 13 en 14 BROEDERSCHAP 33 15 GEZINSLEVEN EN HERVORMING 38 16 en 17 HET VOORRECHT MENS TE ZIJN 41 18 en 19 SHAIK MUSLIH-ud-din-SAADI (1184-1291) 46 20 DE OPLOSSING VAN HET HEDENDAAGSE VRAAGSTUK 52 21 en 22 POZIE 55 23 = 37 MUZIEK 58 24 BROEDERSCHAP 61 25 KUNST EN RELIGIE 64 26 en 27 KHWAJA SHAMS-din-MOHAMMED HAFIZ 66 28 HET LEVENSDOEL VAN DE SOEFI 71 29 VERZAKING 75 30 FARID-ud-din-ATTAR 79 31 LOTSBESTEMMING EN VRIJE WIL 84 32 HET WEZEN VAN HET HART 86 33 WIL, WENS EN VERLANGEN 90 34 DE KRACHT VAN DE GEDACHTE 96 35 OOST EN WEST 100 36 HET ONTWAKEN VAN DE ZIEL 104 38 DE KRACHT VAN DE STILTE 109 39 DE MENS, ZAAD VAN GOD 113 40 WERELDBROEDERSCHAP 117

5

41 KUNST 119 42 HOE GOD HET HEELAL DOORDRINGT 123 43 DE MACHT VAN HET WOORD 127 44 CONCENTRATIE 131 45 HET INNERLIJKE LEVEN 136 46 GERIJPTE ZIEL 144 47 BEHEERSING VAN HET LICHAAM 148 48 ZIEN 151 49 SOEFI MYSTIEK 155 50 KOSMISCHE TAAL 161 51 HET AFSTEMMEN VAN HET HART 166 52 DE VIER PADEN DIE NAAR HET DOEL LEIDEN 175 53 INTELLECT EN WIJSHEID 179 54 HET ONTWAKEN VAN DE WERELD 184 55 KLEUR EN GELUID 190

6

SG nr. 1 SOEFISME IS GEEN PACIFISME Vaak wordt de Soefi Boodschap door haar welwillendheid beschouwd als pacifisme. En de-genen die pacifisme geen goed hart toedragen leggen haar uit als ‘vrede tot elke prijs’. Soe-fisme leert dit niet. Soefisme betekent niet: goedheid, vriendelijkheid of vroomheid. Soefis-me betekent: wijsheid. Alles in het leven is materiaal voor wijsheid om mee te werken en wijsheid kan niet worden beperkt tot wat voor principe dan ook. Er zijn onder de soefi’s gro-te geesten geweest die koning waren en andere die bedelaar, heilige, werkman, comman-dant, generaal, zakenman, staatsman of profeet waren. De soefi’s hebben door de tijden heen in allerlei verschillende soorten beroepen het soefisme beoefend. Dit toont aan dat niemand kan zeggen: ‘dit specifieke geloof of grondbeginsel is een soefi-doctrine’. Er zijn twee dingen: geluid en noten. Noten geven de schaal aan, maar geluid omvat alle no-ten, niet n noot in het bijzonder. Zo is soefisme ook: zij omvat lle overtuigingen en niet n overtuiging in het bijzonder. De soefi noemt geen enkele handeling goed of slecht, want elke handeling kan goed of slecht wrden. Dat hangt af van het goede of verkeerde gebruik van de handeling, en of de handeling gepast of ongepast is. Goed of slecht hangt niet alleen af van de handeling, maar ook van de houding en de situatie. Dit maakt de soefi vanzelf tole-rant ten opzichte van een ander, bereidwillig om een ander te vergeven en onwillig zich een mening te vormen over de handeling van iemand anders. Deze houding houdt de soefi ver verwijderd van de uitspraak dat vrede of oorlog goed is. De soefi zal zeggen: ‘oorlog is goed ten tijde van oorlog, vrede is goed ten tijde van vrede’. Maar als alles op zijn eigen tijd juist is, zou je kunnen zeggen dat het soefisme niets te zoeken heeft in het leven. Als reactie hierop zeg ik dat het soefisme als voornaamste taak heeft de grond af te graven waaronder het licht van de ziel begraven raakt. Christus leert hetzelfde als hij zegt dat ‘niemand zijn licht onder de korenmaat moet zetten’ en ook als hij zegt ‘laat uw licht volop schijnen’. De wereldtoestand is zodanig geworden, dat de mensheid abnormaal is. De mens is niet al-leen bang voor slechtheid, maar ook voor goedheid. De mens ducht niet alleen oorlog, maar ook vrede. De mens is niet alleen vijandschap maar ook vriendschap beu. De mens verdenkt tegenwoordig niet alleen zijn tegenstander maar zelfs ook zijn eigen broer. Het lijkt wel alsof de mind van de wereld niet alleen moe maar ook ziek is, alsof de mensheid een zenuwinstor-ting heeft gehad. De mens, individueel of collectief, kent de zin en het doel van zijn leven niet. De Soefi Boodschap spoort de mensheid aan het leven beter te kennen en vrijheid in het leven te verkrijgen. Zij spoort de mens aan dt te volbrengen wat hem goed, juist en rechtvaardig toeschijnt. En vr elke handeling aandacht aan de gevolgen ervan te schenken door de situatie te bestuderen, zich op zijn eigen houding te bezinnen en van tevoren de methode te bestuderen die men zich eigen maakt bij het handelen in het leven.

7

Het is waar dat het soefisme niet alleen diegenen leidt die religieus, mystiek of visionair zijn. De Soefi Boodschap geeft de wereld de religie van nu, dat wil zeggen je leven tot een religie maken, je beroep, je bezigheid in religie veranderen, je ideaal tot een religieus ideaal maken. Het Soefisme heeft als doel leven en religie te verbinden, die tot dusverre klaarblijkelijk ge-scheiden gehouden werden. Denk eens na over het volgende: hoe kan iemand baat vinden bij religie, wanneer hij eens per week naar de kerk gaat en zich de rest van de week wijdt aan zijn bedrijf? Om die reden houdt de lering van het soefisme in, het dagelijks leven tot een religie te maken, opdat elke handeling in het leven bepaalde spirituele vruchten kan voortbrengen. De Soefi Beweging volgt niet de methode voor wereldverbetering die verscheidene instellin-gen zich eigen hebben gemaakt. Wij denken dat als ziekte besmettelijk is, goedheid dat des te meer zal zijn. De diepte van elke ziel is goed, elke ziel is op zoek naar het goede en door de inspanning van mensen die goed wensen te doen in de wereld kan er veel worden ge-daan, zelfs meer dan een materialistische instelling kan doen. Ongetwijfeld moeten er voor het algemeen welzijn politieke en commercile problemen worden opgelost en kan er in die richting weinig worden gedaan voordat een aantal moeilijke problemen zijn opgelost. Maar dat mag mensen niet uitsluiten van vooruitgang, want alleen de individuele vooruit-gang op het spirituele pad kan de verlangde toestand in de wereld teweegbrengen.

8

SG nr. 2 ONS WERK VOOR DE BROEDERSCHAP Ons voornaamste doel in het werk voor de broederschap is een beter begrip teweeg te brengen onder de verschillende klassen, onder de aanhangers van verschillende religies en onder mensen van verschillende rassen en nationaliteiten. We bedoelen hier niet mee dat we hen willen vermengen. Als dt ons idee zou zijn zou het een heel ander verhaal zijn. We willen de boerderijen waar tarwe wordt verbouwd boerderijen laten zijn waar tarwe wordt verbouwd. Laat er op de velden waar rijst groeit, rijst groeien. Laat er bos zijn, waar bos is, laat er tuinen zijn waar tuinen zijn. Alles is nodig. Onze ideen gaan niet zover dat we alles in nzelfde pan willen bereiden. Wij willen onze vingers niet zover uitrekken dat ze allemaal even lang zijn, want hun natuurlijke lengte is voor hen de gepaste lengte. Onze voorstelling van gelijkheid gaat niet zo ver. Ons streven is alleen er voor te zorgen dat het oosten en het westen, het noorden en het zuiden, zich

Buoc Dau Hoc Dao, Nguyen Van Hong, Chuong 7

Nghi tiết cúng đàn tạiĐIỆN THỜ PHẬT MẪU

Theo vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, thuở đầu tiên của càn khôn vũ trụ, trong khoảng không gian bao la, chỉ có một chất khí hỗn độn gọi là Khí Hư Vô (Hư Vô chi Khí), chuyển động quay cuồng, phát nổ ra một tiếng lớn (big bang), sanh ra một Đấng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, ngôi của Ngài là Thái cực.

Đấng Thượng Đế phân Thái cực ra Lưỡng nghi : Âm quang và Dương quang. Đấng Thượng Đế chưởng quản Dương quang, còn Âm quang chưa có người chưởng quản. Thượng Đế tự hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Từ đây mới bắt đầu có Ngôi Âm.

Tại địa phương, ngôi nhà thờ Đức Chí Tôn được gọi là Thánh Thất, ngôi nhà thờ Đức Phật Mẫu gọi là Điện Thờ Phật Mẫu (ĐTPM). Tại Thánh địa Tây Ninh, Hội Thánh chưa xây cất Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương, nên tạm thời thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.

1. Kiểu thứ nhứt (thờ giống như ở Báo Ân Từ) :

Đại Đàn cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất thường cúng lúc 12 giờ trưa. Do đó, đàn cúng Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương phải dời lại cúng lúc 6 giờ chiều, tức là 18 giờ, nhằm giờ Dậu.

Cúng Đức Phật Mẫu tại ĐTPM chỉ có một nghi tiết, không phân ra Đại đàn hay Tiểu đàn, nhưng vì Lễ sĩ đều điện lễ khi Dâng hương hay Dâng Tam bửu, từ Ngoại nghi đến Nội nghi, nên nghi tiết cúng đàn Đức Phật Mẫu có phần giống Đại đàn cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất.

Cúng Tứ Thời tại ĐTPM vào 4 thời điểm : Tý (0 giờ tức 12 giờ khuya), Mẹo (6 giờ sáng), Ngọ (12 giờ trưa), Dậu (18 giờ tức 6 giờ chiều).

1* Đúng giờ cúng, trên lầu chuông, vị chấp sự khởi dộng Chuông Nhứt.

1. Cửu vị Tiên Nương – Cửu vị Nữ Phật :

Cửu vị Tiên Nương là 9 vị Nữ Tiên hầu Đức Phật Mẫu và giúp việc cho Đức Phật Mẫu.

Trong thời khai Đạo, Cửu vị Tiên Nương lập được nhiều công quả nên đắc thành Phật vị, gọi là Cửu vị Nữ Phật.

Nhưng, 9 Đấng ấy, khi thi hành nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh thì xưng là Cửu vị Tiên Nương; khi an ngự trên ngôi vị thì xưng là Cửu vị Nữ Phật.

Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương ngự tại DTC nơi từng trời thứ 9 : Tạo Hóa Thiên của Cửu Trùng Thiên.

Trong Cửu vị Tiên Nương, các Đấng thường giáng cơ dạy đạo là : Bát Nương, Thất Nương, Lục Nương, Ngũ Nương. Kể từ khi Thất Nương đảm nhận nhiệm vụ giáo hóa các nữ tội hồn tại cõi Âm Quang thì Thất Nương ít có thời giờ rảnh để giáng cơ dạy Đạo.

2. Bạch Vân Động chư Thánh :

Bạch Vân Động là một cái động trên Mặt Trăng, làm nơi cư ngụ cho các vị Thánh, mà Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Động chủ.

Các vị Thánh nơi Bạch Vân Động có nhiệm vụ bảo vệ Đức Phật Mẫu mỗi khi Đức Phật Mẫu du hành hay đi xuống cõi trần. Cho nên khi thờ Đức Phật Mẫu, chúng ta cũng thờ luôn Bạch Vân Động chư Thánh.

Trước khi Chí Tôn mở ĐĐTKPĐ, các vị Thánh Bạch Vân Động được lịnh giáng sanh xuống cõi trần để Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh trong buổi đầu khai đạo.

Đối với nhơn loại thì con người không thể ở trên Mặt Trăng vì nơi ấy không có nước và không khí, nhưng đối với các Đấng thiêng liêng, Mặt Trăng là nơi để dừng chân trước khi các Đấng ấy giáng xuống cõi trần (tức là đi xuống địa cầu của nhơn loại).

3. Giải thích lòng sớ cúng Đức Phật Mẫu :

” Nay vì ngày mùng 1 giờ tốt, các vị thiện nam tín nữ nghiêm trang thiết lập đàn cúng tế với nhang đèn, bông trà trái cây, rượu tinh khiết làm nghi thức, thành tâm hiến lễ. Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, lấy đức từ bi chuyển họa làm phước, thoát khỏi khổ ách, tiêu tan tai nạn, thế giới được an ninh, nhơn loại cộng hòa, Tổ quốc Việt Nam đạt được vinh quang, dân chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi nền phong hóa như thuở vua Nghiêu vua Thuấn. Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, ban xuống hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát khỏi các tiền khiên nghiệp chướng, chiêm ngưỡng ơn phước của MẸ ban cho. Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, cứu độ các cấp chơn linh đã quá vãng, sớm được siêu thăng, an nhàn nơi cõi Cực Lạc. Các đệ tử đồng thành tâm cầu khẩn mong ước, cúi mình lạy xuống, tâu lên. Kính trình.

Trước hết dộng 3 tiếng chuông, kệ 3 câu, mỗi câu dộng 1 tiếng chuông. Bài kệ chuông nhứt :

Khi hết chuông nhứt, các tín đồ tham dự cúng Tứ thời đi vào chánh điện, sắp hàng hai bên, nam nữ đứng đối diện nhau, tay bắt ấn Tý, chờ nghe chuông nhì.

2* Kệ chuông nhì, dứt mỗi câu thì dộng 1 tiếng :

3* Người hầu chuông nơi nội nghi gõ 1 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, bước vào trong, nhìn lên bàn thờ, gõ chuông 3 lần, xá 3 xá, quì xuống.

4* Người hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, mọi người đưa ấn Tý lên trán vừa xá vừa niệm 3 lần :

5* Đồng nhi tụng kinh Niệm Hương, giọng nam ai.

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : “ Nam mô

6* Đồng nhi tụng Khai Kinh, giọng nam ai.

Dứt bài Khai Kinh thì cúi đầu, không xá, không lạy.

7* Đồng nhi tụng Phật Mẫu Chơn Kinh.

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : ” Nam mô

8* Đồng nhi tụng bài Tán Tụng Công Đức Diêu Trì

(Bài Tán Tụng Công Đức DTKM chỉ tụng khi cúng Tứ

Thời, còn khi cúng đàn thì không tụng).

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, niệm danh hiệu Phật Mẫu.

9* Đến phần Dâng Tam bửu, tùy theo thời mà thài.

– Cúng khuya và trưa : thài bài Dâng Rượu.

– Cúng sáng và chiều : thài bài Dâng Trà.

Dù thài dâng Rượu hay dâng Trà, chúng ta cũng cứ cầu nguyện dâng đủ Tam bửu lên Đức Phật Mẫu, giống y như cầu nguyện dâng Tam bửu lên Đức Chí Tôn, vì đây là Bí pháp giải thoát chúng ta khỏi luân hồi :

Lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật và niệm như trên.

10* Tụng Ngũ Nguyện.

Lạy Đức Phật Mẫu như trên.

Đứng dậy, xá 3 xá, quay ra sau xá 1 xá, lui ra đứng hai bên chánh điện như lúc mới nhập đàn. Chờ kệ chuông bãi đàn.

11* Kệ chuông bãi đàn :

Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng nữ nhạc

cỡi chim Thanh loan bay xuống cõi trần.

Nhưng khi cúng đàn Đức Phật Mẫu, về Nhạc Tấu Quân Thiên (NTQT), phân ra hai trường hợp : đờn 3 bài và đờn 5 bài.

* NTQT đờn 5 bài : Vía Đức Phật Mẫu ngày 15 tháng 8, ba ngày rằm lớn của ba nguơn : 15 tháng giêng, 15 tháng 7 và 15 tháng 10.

* NTQT đờn 3 bài : các ngày sóc vọng thường lệ.

Trường hợp NTQT đờn đủ 5 bài chỉ có nơi Báo Ân Từ, còn các ĐTPM địa phương vì Ban nhạc thiếu nhạc sĩ nên chỉ đờn 3 bài.

Khi cúng đàn Đức Phật Mẫu, tất cả Chức sắc đều không mặc áo mão Chức sắc, chỉ mặc áo dài chẹt trắng y như các Đạo hữu mà thôi, bởi vì tất cả đều là con của Đức Phật Mẫu, không phân biệt phẩm tước.

Trong đàn cúng Đức Phật Mẫu, mọi người đều mặc đạo phục như nhau, thể hiện một sự bình đẳng rõ rệt giữa con cái của Phật Mẫu. Nơi đây chỉ có tình MẸ CON, và tình anh chị em với nhau mà thôi.

Đặc biệt chỉ có 6 Lễ sĩ mặc áo rộng màu vàng, đội mão trắng, mang giày bố trắng, phân ra 3 cặp : 1 cặp lễ xướng đứng hai bên Ngoại nghi, 1 cặp đăng và 1 cặp đài.

Xong kệ chuông nhứt, Lễ sĩ khởi xướng :

. 2 Chấp sự giả các tư kỳ sự. (Người được phân công

phần việc nào thì đến giữ phần việc ấy)

Kế tiếp kệ chuông nhì.

Người chấp sự trên lầu chuông dộng 3 tiếng trước khi kệ, rồi kệ xong một câu thì dộng 1 tiếng chuông.

Cặp Lễ Xướng tiếp :

Tất cả các tín đồ nam nữ đi vào đàn cúng, tay bắt ấn Tý, đứng day ngang. Người hầu chuông nơi nội nghi gõ 1 tiếng chuông, mọi người xá đàn 1 xá, bước vào chánh điện, quay người hướng lên bàn thờ, đứng im lặng nghiêm trang.

Nhạc khởi đánh trống Tiếp Giá, rồi bắt qua đờn 3 bài như đã nói ở trên.

(Bước tới đứng trước bàn hương)

Hai cặp Lễ sĩ đăng đài (LSĐĐ) đến đứng trước và hai bên Chức việc quì ngoại nghi (CVNN). Hai Lễ sĩ đài, một bên có một bó nhang 3 cây cột lại chưa đốt, một bên có lư trầm. Nếu không có trầm thì dùng nhang thơm cắt ra bó lại thành bó lớn đăït vào lư.

Vị hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, tất cả nam nữ đồng xá 3 xá rồi quì xuống.

Vị quì ngoại nghi cầm bó nhang 3 cây, đốt nhang và đốt lư trầm xá 3 xá rồi trao cho cặp Lễ sĩ đài. Nhạc đánh thét cho 4 Lễ sĩ đứng dậy, lui ra, quay mặt vào chánh điện, chuẩn bị điện hương.

LSĐĐ theo tiếng trống nhạc, điện dâng hương và dâng lư trầm từ ngoại nghi vào nội nghi.

Lễ sĩ trao bó hương cho vị chứng đàn và lư trầm cho vị quì kế bên. Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, CSCĐ hai tay cầm bó hương cùng với mọi người xá 3 xá, vừa xá vừa niệm 3 lần :

Đồng nhi tụng kinh Niệm Hương, giọng Nam ai. CSCĐ hai tay cầm bó hương kính cẩn nâng lên ngang trán và giữ như thế trong suốt thời gian đồng nhi tụng kinh Niệm Hương. Vị quì kế bên CSCĐ cũng nâng lư trầm lên ngang trán giống như CSCĐ.

CSCĐ cầm bó hương và vị quì kế bên cầm lư trầm, đồng xá 3 xá rồi trao cho hai vị tiếp lễ, một đem bó hương lên cắm vào lư hương trên bàn thờ, một cầm lư trầm lên đặt trên bàn thờ. Bốn Lễ sĩ đăng đài lui ra, trở bộ quay trở về ngoại nghi.

Đồng nhi tụng bài Khai Kinh, giọng Nam ai.

Nhạc gài trống đờn Nam xuân, đồng nhi tụng bài Phật

Mẫu Chơn Kinh, giọng Nam xuân.

Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một bên có một bình hoa nhỏ đủ 5 sắc hoa tươi, một bên có 1 trái cây, rồi 4 Lễ sĩ đăng đài đồng đến đứng trước vị quì ngoại nghi, day mặt vào nhau.

Vị quì ngoại nghi chỉnh sửa hoa và quả cho ngay ngắn, cầm bình hoa và dĩa quả xá xuống 3 xá, rồi trao cho hai Lễ sĩ đài.

Nhạc đổ 3 hồi, 4 Lễ sĩ đứng dậy, lui ra hai bên, quay mặt hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng hoa và quả.

Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên.

Khi dứt thài, Lễ điện vừa tới nội nghi, day mặt vào giữa.

Cầu nguyện Dâng Hoa xong thì đưa bình hoa và dĩa trái cây cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ. Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ quay về ngoại nghi.

Tất cả trong đàn cúng đều lạy Phật Mẫu giống như mục 12. Lưu ý : Dâng mỗi bửu đều lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Phật Mẫu : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

Vị CVNN cầm nhạo lên rót rượu vào ly, rồi hai tay cầm ly rượu xá 3 xá, trao lại cho Lễ sĩ đài. LSĐĐ đồng đứng dậy,lui ra, quay người hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng rượu.

Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.

Đồng nhi thài bài Dâng Rượu, Lễ sĩ điện lên nội nghi.

Vị chứng đàn tiếp ly rượu, vị quì kế bên tiếp nhạo rượu, cầm lên xá 3 xá, đồng đưa lên trán cầu nguyện, có khắc chuông, tất

cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện Dâng Rượu : ” Con xin dâng chơn thần của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”

Cầu nguyện xong, xá 3 xá, rồi trao ly rượu và bình rượu

cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.

Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ đi về ngoại nghi.

CVNN cầm lấy bình trà, rót nước trà vào tách, cầm tách trà đưa lên trán xá 3 xá, rồi trao lại cho Lễ sĩ đài. LSĐĐ đứng dậy, lui ra, quay người hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện trà.

Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.

Đồng nhi thài bài Dâng Trà, Lễ sĩ điện vào nội nghi.

” Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”

Cầu nguyện xong, xá 3 xá, trao tách trà và bình trà cho

hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.

Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ đi về ngoại nghi.

Hai Lễ sĩ đăng đi lên nội nghi, bước đi thường, không điện,

CSCĐ cầm sớ xá 3 xá, cầu nguyện, rồi rút tờ sớ ra trao cho người đọc sớ, còn vị CSCĐ hai tay cầm bao sớ cung kính nâng lên ngang trán trong suốt thời gian đọc sớ.

Vị đọc sớ, cao giọng đọc lên, đến danh hiệu của các Đấng thì dừng lại một chút để khắc chuông cúi đầu kỉnh lễ.

Bài văn sớ cúng Đức Phật Mẫu ngày mùng 1 thường lệ (Sóc lệ) chép ra như sau :

Thời duy, Thiên vận . . . . . . niên, . . . ngoạt, sơ nhứt nhựt, Dậu thời, hiện tại Việt Nam quốc, . . . . . Trấn, . . . . . Châu, . . . . . Tộc, . . . . . Hương, cư trụ Điện Thờ Phật Mẫu chi trung.

Kim đệ tử . . . (tên họ của vị chứng đàn) . . . công đồng chư thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền, thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO :

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM :

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai,

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn,

Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn,

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

Kim vì, sóc nhựt lương thần, chư thiện nam tín nữ đẳng nghiêm thiết đàn tràng, hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, dĩ đức từ bi, chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng hòa nhơn loại, Tổ quốc Việt Nam đạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, phát hạ hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu ân tứ phước.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, cứu độ các đẳng chơn linh quá vãng tảo đắc siêu thăng, an nhàn Cực Lạc.

Chư đệ tử đồng thành tâm khẩn nguyện cúc cung khấu bái thượng tấu

Dĩ văn.

Đệ tử : . . . (tên họ của vị chứng đàn) . . .

Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện.

(Cung kính, thứ tự, phân ra đứng thành hai ban : nam và nữ)

Tất cả tín đồ trong đàn cúng, lui ra hai bên, đứng trật tự như lúc mới nhập đàn.

Riêng Ban Nhạc thì quì ngay trên lầu lạy Đức Phật Mẫu, vì còn phận sự đánh nhạc.

Người chấp sự trên lầu chuông dộng chuông bãi đàn.

Dộng trước 3 tiếng chuông, rồi kệ bài Kệ chuông bãi đàn, kệ xong 1 câu thì dộng 1 tiếng chuông lớn. Bài kệ chuông bãi đàn :

Tiếng chuông kệ bãi đàn vừa dứt, Lễ xướng :

Nhạc đánh thét rồi dứt. Mọi người xá đàn 1 xá rồi bắt đầu đi ra. Các vị bên trong đi ra trước, đi hàng một, đi ra cũng trật tự như khi đi vào nhập đàn. Khi ra khỏi chánh điện mới xả ấn Tý.

Tất cả có 46 Nghi tiết trong lễ cúng đàn Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương.

ĐTPM thường cất có 3 gian :

– Gian chính giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu), Cửu Vị Tiên Nương và Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian bên tả thờ : Chư Chơn Linh Nam Phái.

– Gian bên hữu thờ : Chư Chơn Linh Nữ Phái.

Các long vị đều được viết bằng chữ Nho đại tự.

2. Kiểu thứ nhì (thờ giống ĐTPM Trí Giác Cung) :

ĐTPM nơi Trí Giác Cung (Trường Qui Thiện cũ) không thờ Chư Chơn Linh Nam Phái và Nữ Phái, chỉ thờ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Nữ Phật, Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu)

– Gian hữu thờ : Cửu Vị Nữ Phật (Cửu Vị Tiên Nương).

– Gian tả thờ : Bạch Vân Động Chư Thánh.

Khi nào Hội Thánh xây dựng được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì mới có thể thống nhứt nghi lễ thờ Đức Phật Mẫu.

Đức Phật Mẫu cho hai Khí Âm quang và Dương quang phối hợp với nhau để tạo ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Trong vạn vật có chúng sanh. Trong chúng sanh, loài người khôn ngoan và linh thiêng liêng hơn hết vì Thượng Đế ban cho mỗi người một điểm linh hồn.

Nói riêng về con người, mỗi người chúng ta có Tam thể xác thân :

– Xác thân phàm : do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất phàm trần.

– Xác thân thiêng liêng, thường gọi là chơn thần, do Đức Phật Mẫu dùng hai nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo ra, được Đức Phật Mẫu nuôi dưỡng bằng khí Sanh quang do Thái cực phát ra.

– Linh hồn hay chơn linh là một điểm linh quang của Thượng Đế lấy ra từ khối Đại linh quang của Ngài để ban cho mỗi người, tạo ra sự sống và sự suy nghĩ hiểu biết.

Do đó, Thượng Đế là Cha của chơn linh, Đức Phật Mẫu là Mẹ của chơn thần, còn thể xác thì có cha mẹ phàm trần. Chúng ta phải thờ, trước hết là cha mẹ thể xác, kế đó là phải thờ hai Đấng Cha Mẹ thiêng liêng : Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Thờ Đức Chí Tôn, thờ Đức Phật Mẫu, thờ cha mẹ phàm trần là để chúng ta luôn luôn nhớ tưởng đến công ơn sanh thành và dưỡng dục của các Đấng ấy.

#1 Bai Van Khan Cung Co Hon Thang 7 Chuan Nhat Theo Phong Tuc

Cúng cô hồn tháng 7 là một phong rất phổ biến của người Viêt Nam. Về vấn đề tâm linh, các nghi thức cúng tế cho các cô hồn, những linh hồn không siêu thoát, không nơi nương tựa.

Mâm lễ cúng cô hồn này thường được tổ chứ vào tháng Bảy âm lịch hàng năm. Ở bài viết này gửi đến các bạn những thông tin cơ bản về lễ cúng cô hồn, bài văn khấn cúng cô hồn tháng 7 và những lưu ý cần tránh để không phạm phải những điều cấm kỵ.

Cúng cô hồn tháng 7 vào ngày nào?

Mâm cúng cô hồn tháng 7 sao cho cho đúng thì không phải ai cũng có thể nắm và hiểu rõ. Vào ngày rằm không phải cứ chuẩn bị mâm cao cỗ đầy mà còn ở thái độ, lương tâm cũng như sự thành tâm của mỗi người.

Trong ngày này các gia đình nên đi chùa để làm lễ, cầu siêu cũng như tỏ lòng báo hiếu đến cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Sau đó về nhà làm mâm cơm chay thắp hương lên bàn thờ phật và bàn thờ của người thân đã mất.

Ngoài cúng cô hồn tháng 7, người Việt còn cúng vào ngày 16 âm lịch hàng tháng

Sự tích rằm tháng 7

Ở Trung Quốc thì từ mùng 2/7 âm lịch là ngày xá tội vong nhân, Diêm Vương sẽ cho mở cửa Quỷ môn quan để cho các quỷ đói trở lại được trần gian đến ngày 15/7 âm lịch nên tháng cô hồn cũng bắt đầu từ đó mà đi.

Do đó, theo tục lệ dân gian thì mọi người phải cúng gạo, muối, cháo để quỷ đói không còn quấy nhiễu cuộc sống sinh hoạt thường ngày và ngày 14/7 âm lịch hàng năm chính là ngày mà người dân trung Quốc cúng cô hồn.

Còn ở Việt Nam, tín ngưỡng tâm linh lễ cúng cô hồn tháng 7 đã được truyền từ đời này đến đời khác và phong tục ấy vẫn còn lưu giữ tới bây giờ. Người xưa cho rằng, con người gồm phần xác và phần hồn.

Khi con người mất đi chỉ mất phần xác còn phần hồn vẫn luôn tồn tại và có người được đầu thai, có người lại bị giữ lại và được đẩy xuống địa ngục để làm quỷ đói, ma đói quấy nhiễu trần gian.

Xem Thêm: Giấc mơ thấy em bé nên đánh lô đề con số nào may mắn?

Do đó, cứ vào tháng 7 âm lịch hàng năm thì người Việt lại cúng cô hồn và việc cúng này kéo dài từ ngày mùng 1 đến 30/7 âm lịch tùy vào từng vùng và từng gia đình mà không ấn định riêng 1 ngày nào.

Bên cạnh đó, theo quan niệm, tháng 7 là tháng của ma quỷ, tháng xui xẻo nên các bạn cần lưu ý những việc trọng đại trong gia đình đều tránh tổ chức, diễn ra vào tháng 7 âm lịch.

Thông thường mọi người sẽ có một mâm đồ cúng cô hồn tháng 7 trong nhà và một mâm cúng ngoài đường hoặc ngoài sân nhà cho các vong hồn.

Chuẩn bị mâm cúng cô hồn tháng 7 như thế nào?

Mâm cúng cô hồn tháng 7 không cần quá cầu kỳ. Nhưng một số lễ vật cần phải có, phổ biến trong mâm cúng, thường được mọi người Hay dùng:

Hoa

Quả

Gà luộc

Tiền mặt

Nước lọc

Xôi chè

Đường thẻ

Nến, nhang

Muối và gạo

Giấy cúng cô hồn

Heo quay, bánh hỏi

Nước lọc, trà, rượu

Khoai, sắn, ngô luộc

Bánh kẹo, bỏng, oản

Cháo loãng (cháo trắng không cho thêm gì cả)

Bài văn khấn cúng cô hồn tháng 7 chuẩn nhất theo phong tục người Việt

Đọc bài văn khấn cúng cô hồn tháng 7 là thủ tục để kết lại nghi thức cúng cô hồn. Văn cúng cũng khác nhau theo từng địa điểm, văn hóa của mỗi miền. Tuy nhiên, có 2 bài văn cúng cô hồn tháng 7 phổ biến được nhiều người sử dụng nhất.

Văn khấn cúng cô hồn tháng 7 thường do người lớn trong nhà thực hiện.

Văn khấn cúng cô hồn số 1:

Kính lễ mười phương tam bảo chứng minh

Hôm nay ngày……. Chúng con tên………

Ở tại số nhà………………………………

Phát lòng thành tịnh, thiết lập đạo tràng, bày tiệc cam lồ, Kỳ an gia trạch, Kỳ an bổn mạng. Nhờ ơn tế độ, thêm sự phước duyên, nguyện xin gia đình yên ổn, thuận lợi bán buôn, dòng họ quy hướng đạo mầu, con cháu học hành tinh tiến, nguyện cầu thế giới hòa bình, nhơn sanh phước lạc.

Kính thỉnh:

Cô hồn xuất tại côn lôn

Ở tam kỳ nghiệp, cô hồn vô số

Những là mãn giả hằng hà

Đàn ông, đàn bà, già trẻ lớn nhỏ

Ôi! m linh ơi, cô hồn hỡi

Sống đã chịu một đời phiền não

Chết lại nhờ hớp cháo lá đa

Thương thay cũng phận người ta

Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu

Đàn cúng thí vâng lời phật dạy

Của có chi, bát nước nén nhang

Cũng là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu

Phép thiêng biến ít thành nhiều

Trên nhờ tôn giả chia đều chúng sanh

Phật hữu tình từ bi tế độ

Chớ ngại rằng có có không không

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng

Độ cho nhứt thiết siêu thăng thượng đài.

Chân ngôn biến thực: Nam mô tát phạt đát tha nga đa, phà lồ chí đế án tam bạt ra, tam bạt ra hồng (3 lần)

Chân ngôn cúng dường: Án nga nga nẵng tam bà phạt phiệt nhựt ra hồng (3 lần).

Văn khấn cúng cô hồn số 2:

Kính lễ mười phương tam bảo chứng minh

Hôm nay ngày……tháng……năm………………( Âm lịch).

Con tên là:……………Tuổi……..

Ngụ tại số nhà…, đường…, phường(xã)…, quận(huyện)……,tỉnh (Tp):…………

Trân trọng kính mời các chư vị khuất mặt, khuất mày, kẻ lớn, người nhỏ, thập loại cô hồn, các Đảng, âm binh ngoài đường, ngoài xá, hửu danh vô vị, hửu vị vô danh, các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn…về nơi đây hưởng lộc thực đầy đủ…

Phát lòng thành tịnh, thiết lập đạo tràng, bày tiệc cam lồ, Kỳ an gia trạch, Kỳ an bổn mạng. Nhờ ơn tế độ, thêm sự phước duyên, nguyện xin gia đình yên ổn, thuận lợi bán buôn, phù hộ được buôn may bán đắt, mọi sự được sở cầu như ý, dòng họ quy hướng đạo mầu, con cháu học hành tinh tiến, nguyện cầu thế giới hòa bình, nhơn sanh phước lạc.

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Độ cho nhứt thiết siêu thăng thượng đài.

Chân ngôn biến thực: Nam mô tát phạt đát tha nga đa, phà lồ chí đế án tam bạt ra, tam bạt ra hồng ( 3 lần)

Chân ngôn cúng dường: Án nga nga nẵng tam bà phạt phiệt nhựt ra hồng (3 lần)

Những lưu ý khi làm lễ cúng cô hồn tháng 7

Những điều cấm kỵ trong lễ cúng cô hồn rằm tháng 7

Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi con người ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.

Người yếu bóng vía không nên đi chơi đêm trong những ngày tháng cô hồn, nếu không sẽ dễ gặp điều không may. Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng “Một sợi lông chân quản ba con quỷ”, người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần.

Không tùy tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến.

Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình.

Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ “mượn” và để lại “quỷ khí” trong các quần áo ấy.

Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.

Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trặc trẹo chân.

Không hù doạ người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc” dễ bị ma quỷ xâm nhập.

Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.

Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm “quỷ khí”.

Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy.

Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng.

Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác “hình như” có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình. Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc.

Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.

Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.

Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.

Những điều nên làm khi cúng vào tháng 7 âm lịch hoặc hàng tháng

Làm lễ cúng các cô hồn vào bất cứ ngày nào trong tháng, nếu vào cúng cô hồn mùng 2 16 âm lịch thì càng tốt để tỏ lòng thành chính mình.

Thăm mộ phần của người thân trong gia đình ở ngoài nghĩa địa hay trong trong chùa chiền, nơi lưu giữ các hũ hài cốt. Vì tháng cô hồn còn gọi là Tết của những người Âm.

Trước khi dọn đồ ra cúng cô hồn, nếu chưa kịp thắp nhang khấn vái mà có những người tranh nhau giật các đồ cúng từ trên tay bạn thì ngay lập tức nên buông thả đồ cúng ra khỏi tay. Nếu bạn giật lại thì hậu quả nhận được là những điều tệ hại. Nếu khi bạn chưa làm lễ cúng mà đã có người chầu chực để giật có nghĩa là tín hiệu tốt.

Nên hạn chế sát sinh các con vật.

Nên cúng xe ô tô dù có kinh doanh hay không kinh doanh.

Nên ăn chay để tránh điềm dữ.

Nên làm phúc thiện mạnh mẽ trong tháng này.

Nếu biết tụng kinh thì nên trì tụng (Chú Đại bi, chuẩn đề, vu lan báo hiếu, Địa tạng).

Nên ăn nói nhã nhặn, vui vẻ trong gia đình hay trong bạn bè đối tác.

Nên tránh xa các cuộc xung đột.

Nên cứu người khi gặp nguy cấp.

Nên đi chùa chiền thắp nhang cầu xin sức khỏe, cầu siêu…

Khi các bạn cúng cô hồn tháng 7 xong thì 1 ngày sau đó hoặc cuối tháng 7 nên dùng bột trừ tà ma tiêu khử, tránh trường hợp các âm hương linh phảng phất vào nhà mình tụ ở lại. Đồng thời vào đầu tháng 8 âm lịch thì nên dùng bột tẩy uế mà tẩy hoàn toàn trong căn nhà mình để có tác dụng cân bằng sinh khí trong ngôi nhà mình ở.

Nơi cung cấp mâm cúng cô hồn tháng 7 chất lượng

Để hoá giải những khó khăn trong việc thực hiện các nghi thức nghi lễ cúng cô hồn tháng 7 đầy đủ của các gia đình hiện nay có không ít công ty cung cấp các dịch vụ chuẩn bị lễ vật cúng cô hồn trọn gói.

Đặt mâm cúng cô hồn tháng 7 trọn gói, quý khách sẽ nhận được những ưu đãi cùng lợi ích sau:

Đảm bảo về giá

Hoá đơn chứng từ đầy đủ

Vệ sinh an toàn thực phẩm

Tiết kiệm chi phí và thời gian

lễ cúng cô hồn tháng 7 đầy đủ

Lựa chọn lễ vật mâm cúng theo yêu cầu

Cúng cô hồn tháng 7 là việc làm rất quan trọng diễn ra mỗi năm, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cúng cô hồn không chỉ giúp công việc, sức khoẻ của gia đình được thuận lợi, may mắn mà còn cứu vớt các chúng sinh vất vưởng, lang thang không có ai cúng giỗ.