Lễ khai hạ ngày mùng 7 Tết Nguyên đán
Sau lễ hóa vàng ngày mùng 3 Tết, ngày mùng 7 tháng Giêng thường được coi là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết Nguyên đán. Cùng tìm hiểu về ngày Lễ Khai Hạ Ngày Mùng 7 Tết trong phong tục tết cổ truyền ngày xưa.
1. Lễ khai hạ là gì
Lễ khai hạ thực chất là lễ hạ cây nêu, thường được mọi người tiến hành vào chiều mùng 7 tháng giêng để kết thúc chuỗi ngày nghỉ tết. Cho đến nay, tuy phong tục dựng cây nêu đã không còn phổ biến nhưng dân gian vẫn tiến hành lễ khai hạ như một phần không thể thiếu của lễ tết.
Cụ thể hơn: Theo phong tục truyền thống ngày xưa, cây nêu ngày Tết sẽ được dựng từ 23 tháng Chạp, hay muộn nhất là dựng vào ngày 30 Tết, có treo kèm những vật trang trí như vòng tròn nhỏ hay thứ gì đó tùy theo phong tục từng địa phương với ý nghĩa là tiễn đi những thứ xấu xa, không may mắn của năm cũ, nghênh đón những điều may mắn đến với gia đình, cộng đồng trong những ngày đầu năm mới.
Ngoài ra cây nêu còn có ý nghĩa trừ ma quỷ, không cho ma quỷ tới quấy phá gia đình, ăn Tết thật bình an. Qua ngày Tết, đón thần linh về với gia đình thì đồng thời sẽ hạ cây nêu ngày Tết này đi.
2. Tìm hiểu về lễ khai hạ
Buổi chiều ngày mùng 7, người Việt thường làm lễ hạ cây nêu, còn gọi là lễ khai hạ để kết thúc dịp Tết. Sau ngày mùng 7, mọi người phải ra sức, trở lại lao động bình thường.
Theo tục xưa, cây tre dài khoảng 5 – 6m được dùng làm cây nêu. Cây thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp hoặc chiều 30 Tết. Cây được chôn chặt, trên ngọn cây treo một vòng tròn nhỏ và treo nhiều vật dụng có tính chất biểu tượng tùy theo địa phương, phong tục, dân tộc.
Có nơi người ta treo bó lá dứa, khung tre nứa dán giấy màu xanh đỏ, lá bùa hình bát quái, vàng mã, câu đối hoặc hình con vật bằng đất nung… Có nơi lại là túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, chiếc khánh (chuông gió), những miếng kim loại lớn nhỏ, lá thiên tuế, lông gà, củ tỏi. Khi có gió thổi, chiếc khánh và những miếng kim loại phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh. Chiếc khánh, đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”có ý nghĩa năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Dưới chân cây nêu có rắc vôi bột và vẽ hình cung tên.
Trong sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: “Bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu”… có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ”.
Tất cả những vật này có ý nghĩa trừ tà, báo cho ma quỷ biết đất đã có chủ, không được đến quấy nhiễu và cầu mong một năm mới tốt lành, bình an, may mắn.
Cây nêu còn là biểu tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó có cây nêu cao nhất. Trước khi hạ cây nêu, chủ nhà đặt một cái bàn nhỏ, trên bày một đĩa dưa hấu, một ít hương, hoa… ngay gốc cây nêu ngụ ý báo cáo với trời đất là gia đình đã ăn Tết vui vẻ. Sau đó, rung cây nêu cho rụng hết lá khô thì hạ cây nêu xuống và đem bùa nêu treo ở cửa cái (cửa ở mặt trước ngôi nhà).
Với những gia đình buôn bán, ngày mồng 7 Tết họ làm cỗ cúng lễ để cầu buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt trong năm mới.
Vài năm trở lại đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần mất và được thay thế với tục chơi hoa đào, hoa mai ngày. Nhiều người trẻ giờ đây chỉ còn biết tới cây Nêu qua những câu ca dao, tục ngữ như:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
4. Văn khấn lễ khai hạ/lễ hóa vàng
– Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
– Con kính lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương
– Con kính lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ, Long Mạch, Táo Quân, chư vị tôn thần
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ, Chư vị Tôn thần
– Con kính lạy Ngài Đương niên hành khiển, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, các ngài Thổ địa, Táo quân, Long mạch Tôn thần.
– Con kính lạy các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, nội ngoại tiên linh.
Hôm nay là ngày mùng 3 tháng giêng năm …………………
Chúng con là: ……………………………tuổi………………
Hiện cư ngụ tại ……………………………………………….
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cung bày trước án. Kính cẩn thưa trình: Tiệc xuân đã mãn, Nguyên đán đã qua, nay xin thiêu hóa kim ngân, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn âm linh trở về âm cảnh.
Kính xin lưu phúc, lưu ân, phù hộ độ trì dương cơ âm trạch, mọi chỗ tốt lành, con cháu được bách sự như ý, vạn sự bình an, tài lộc song toàn, gia đạo hưng vượng.
Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
(Văn khấn cổ truyền Việt Nam – NXB Văn hóa Thông tin)
Bài văn cúng, khấn lễ hóa vàng khác được nhiều người sử dụng
5. Bài cúng hóa vàng
Hôm nay ngày….
Tức năm thứ năm mươi… Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: Thôn… xã… huyện… tỉnh….
Tín chủ là:…… cùng toàn gia kính bái.
Nay nhân ngày lễ tạ.
Kính cẩn sắm một lễ gồm….
gọi là lễ mọn lòng thành, kính dâng lên:
Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên sư, bản viên thổ công, liệt vị tôn thần.
Trước linh vị của:
Hiển:
Hiển:
Hiển:
…
Và các vị tổ bá, tổ thúc, tổ cô, cùng các vong linh phụng thờ theo tiên tổ.
Kính cẩn thưa rằng:
Tiệc xuân đã mãn
Lễ tạ kính trình
Rước tiễn tiên linh
Lại về âm giới
Buổi đầu năm mới
Toàn gia mong đợi
Lưu phúc lưu ân
Kính cáo tôn thần
Phù trì phù hộ
Dương cơ âm mộ
Mọi chỗ tốt lành
Con cháu an ninh
Vận hành khang thái.
Cẩn cáo!