Đề cập về Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông từ trước đến nay đã có không ít các bậc túc Nho, học giả cũng như nhiều tác giả quan tâm nói đến công lao và sự nghiệp của Trần Nhân Tông ở nhiều phạm trù. Đặc biệt mới đây, nhân kỷ niệm 710 năm (11-11-1308) ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập diệt Niết bàn.
Nhân dịp đầu xuân, đọc lại Tuyển tập thơ văn Lỳ – Trần, người viết bài này rất đồng cảm với tác gỉa Hoài Nam khi nhận định: “Nhìn lại lich sử mười thế kỷ của chế độ quân chủ Trung ương tập quyền Việt Nam, có thể mạnh dạn nhận định rằng, thời đại Lý – Trần là thời đại phát triển rực rỡ nhất với chiến công chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt và những thành tựu to lớn về chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế. Điều đáng nói ở đây là ở thời đại này là một dấu ấn tinh thần đặc thù in đậm trong lịch sử, một dấu ấn tinh thần rất khó gặp lại ở các giai đoạn sau – dẫu trình độ văn minh phát triển ngày càng cao hơn. Dấu ấn tinh thần ấy thể hiện ở hình ảnh những con người tràn đầy tự tin, hào hùng, phóng khoáng”.
Thông qua lịch sử và tác phẩm thơ văn Lý – Trần, điển hình ở giai đoạn này, chúng ta thấy những bậc Hoàng đế đếu là những anh hùng cứu nước, là triết gia, là những Thiền sư lỗi lạc, là thi sĩ…Đại biểu cho tinh thần dung hợp giữa đời và đạo ấy, không ai khác đó là Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308): Người anh hùng đã lãnh đạo toàn dân hai lần kháng chiến chống Nguyên-Mông thắng lợi (1285 – 1288); người sáng lập Thiền phái Trúc lâm Yên Tử – đỉnh cao tư tưởng của Thiền học Việt Nam, một thi sĩ đặc sắc của văn học giai đoạn Lý – Trần.
Với Trần Nhân Tông, nhìn từ lĩnh vực nào chúng ta cũng thấy tầm vóc lớn rộng khó có thể so sánh. Là người Việt Nam trong chúng ta không ai có thể quên hai câu thơ nổi tiếng của vua Trần Nhân Tông: ” Xã tắc bao phen chồn ngựa đá Non sông muôn thủa vững âu vàng”. Đây là hai câu thơ đầy khí phách tổng kết quá trình chiến thắng vĩ đại ghi lại chiến công hiển hách chống Nguyên-Mông của quân dân Đại Việt khi giải bọn tù binh tới và đọc trước lăng Trần Thái Tông. Với hai câu thơ cảm khái trên, ta thấy hồn thơ đầy khí phách và vững tin. Đây là những câu thơ Trần Nhân Tông viết khi còn tại vị.
Đến khi xuất gia tu hành (8.1299), Sơ Tổ Trúc lâm khi đề cập về xuân chúng ta lại càng ngạc nhiên hơn bởi những bài thơ nội dung thấm đậm lẽ đời, lẽ đạo sâu thẳm cõi thiền, điển hình là bài “Xuân Vãn”. Với bài thơ này, theo Thiền sư Thanh Từ, đây là bài thơ ngắn chỉ có 4 câu, nhưng nội dung đã nói được lẽ đời, lẽ đạo thật đầy đủ và sâu sắc. Bài thơ này, trong mùa xuân trước chúng tôi đã có dịp giới thiệu. Nhận dịp đón xuân Kỷ Hợi năm nay, chúng ta lại cùng đến với một số bài thơ trong tuyển tập thơ văn Lý – Trần, trong đó có mảng thơ Thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Trước hết, chúng ta hãy đến với bài tuyệt thi có tựa đề “Xuân Cảnh”.
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi Khách lai bất vấn nhân gian sự Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dich thơ:
Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày Thềm hoa chiều rợp, bóng mây bay Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế Cùng tựa lan can nhìn núi mây. (Cảnh xuân – Nguyễn Huệ Chi dịch).
Đọc hai câu đầu của bài thơ chúng ta thấy ngay kết quả tri giác cụ thể của con người trước thế giới: cái nghe (đó là điểu ngữ trì – chim hót chậm rãi) và cái nhìn (mộ vân phi – mây chiều lướt bay). Con người ở đây, có thể là chính tác giả, nhưng đó cũng có thể là “không ai cả”. Và ta chỉ thấy thiên nhiên xao động bộc lộ vẻ đẹp của mùa xuân một cách tự nhiên. Trên dòng trôi chảy của “nét xuân” ấy, ta thấy “khách” xuất hiện, một sự xuất hiện trong thầm lặng (bất vấn – không hỏi) nhưng hòa đồng (cộng ý – cùng dựa lan can) tức dựa vào cảnh vật. Và cuối bài thơ, ta gặp (thúy vi) đó là một mầu xanh của thiên nhiên mùa xuân bao trùm rộng khắp…giống như cái tâm thiền an lạc đang tràn ngập hồn người. Bài thơ chỉ miêu tả thôi, chứ không diễn giảng; ý thơ nhẹ nhàng mà có sức lan tỏa trước vẻ đẹp của thế giới tạo vật. Bài thơ “Xuân cảnh” có thể nói là bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Nó không trực tiếp hoặc gián tiếp thuyết giảng về yếu chỉ thiền tông, hay Bí mật thiền tông như chúng ta thường thấy ở những bài kệ của các Thiền sư, mà nó thiên về bày tỏ cảm xúc thiền của người đạt đạo trước cái đẹp bản thể của thiên nhiên cũng như con người và cuộc sống.
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư Lộ trích thu đình dạ khí hư Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Dịch thơ:
Đèn song chếch bóng, sách đầy giường Đêm vắng sân thu lác đác sương Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương. (Trăng – Đào Phương Bình dịch)
Phật hoàng Trần Nhân Tông trên sân khấu cải lương
Là kẻ hậu học, đọc bài “Nguyệt” nói trên của Tổ Trúc lâm ta thấy ở đây không gian được phác lên trong bài thơ là không gian bao la khoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ. đặc trưng cho cái “không” của thiền. Thời gian ở đây là thời điểm ban đêm của mùa thu; thời gian lặng tĩnh không truy tìm “bình thường tâm thị đạo” đây là phút giây bừng ngộ. và cái tâm của con người lắng đọng, gạt bỏ đi cái màn vô minh che phủ thường ngày, thì trong cái “không” thời điểm ấy, con người tỉnh giác (thụy khởi) với dư vang của tiếng chày nện vải (châm thanh). Tiếng chày không phải là thực tại – nói đúng hơn thì nó đã từng là thực tại của tàng thức theo (duy thức học). Và khi tiềm thức cũng bị minh sát, thì không gian trống không lại càng trở nên vô tận. Từ cái “tĩnh” mà cái “động” sinh ra: hình ảnh ánh trăng vừa ghé đến bông hoa hé nở giữa đêm khuya vừa là ảnh thực, vừa như một ẩn dụ bừng sáng của trí tuệ; giữa khoảng không bao la của vũ trụ – tâm hồn ấy, phải chăng đó là bản thể chân như.
Địa tịch đài du cổ Thời lai xuân vị thâm Vân sơn tương viễn cận Hoa kính bán tình âm Vạn sự thủy lưu thủy Bách niên tâm ngữ tâm Ý lan hoành ngọc địch Minh nguyệt mãn hung thâm. Dịch thơ (Ngô Tất Tố)
Lên núi Bảo Đài
Đất vắng đài thêm cổ Ngày qua, xuân chửa nồng Gần xa, mây núi ngất Nắng rợp, ngõ hoa lồng Muôn việc nước trôi nước Trâm năm lòng nhủ lòng Tựa hiên nâng sáo ngọc Đầy ngực ánh trăng trong.
Bài 1: Thùy phục cánh tương cầu giải thoát Bất phàm, hà tất mịch thần tiên? Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão Y cựu vân trang nhất tháp thiên. Bài 2: Thị phi niệm trục triêu hoa lạc Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
Dich thơ: Bài 1: Ai trói buộc chi, tìm giải thoát? Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên Vượn nhàn, ngựa mỏi, ta già lão Như trước, am mây chốn tọa thiền? Bài 2: Phải trái rụng theo hoa buổi sớm Lợi danh lạnh với trận mưa đêm Hoa tàn, mưa tạnh, non im ắng Xuân cỗi còn dư một tiếng chim. (Mạn hứng ở sơn phòng – Đỗ Văn Hỷ dịch)
Đọc hai câu đầu của bài thơ thứ nhất, dưới dạng những câu hỏi phản biện, chúng ta thấy tác giả thể hiện một quan điểm phá chấp triệt để – phá cái chấp vào Phật và cái chấp của cả giải thoát (mang tính hình thức). Đây là cách của thiền nhằm làm rõ sự và lý để hướng người tu đến lộ trình giải phóng hoàn toàn tư duy cá nhân. Thật ra, đây là một quan điểm đã trở thành truyền thống mang nét đặc trưng cho tinh thần khai phóng của Thiền học Việt Nam thời Lý – Trần. Điều này ta có thể thấy trong thơ của các thiền sư trong giai đoạn này; song đặc biệt rõ nét nhất là ở thời Trần. “Thành được chánh giác ít khi dựa vào tu hành / Tu hành chỉ là sự giam cầm sự ưu việt của trí tuệ” (Cảm hoài 1). Hoặc trong thơ của Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung (1230-1291) “Lông mày nằm ngang lỗ mũi nằm dọc / Phật và chúng sinh đều cùng một bộ mặt / Ai là phàm ai là thánh? / Tìm tòi trong nhiều kiếp cũng không thấy căn tính” (Phàm thánh bất dị). Nhưng ở Trần Nhân Tông, ta thấy dường như cách diễn đạt của cùng một nội dung đã trở nên uyển chuyển, nhu nhuyễn hơn, và dường như Trúc Lâm triển khai trong tác phẩm của mình với sự khế hội chân lý cũng khác.
Đọc những tác phẩm của Trần Nhân Tông nói chung, trong đó có mảng thơ thiền, chúng ta thấy ở đây là “pháp tự nhiên” (thuận theo tự nhiên). Điều này bộc lộ rất rõ ở bài mà ta đang tìm hiểu, đó là bài thơ “Sơn phòng cảm hứng” thứ hai. Trần Nhân Tông nói đến hoa buổi sớm (triêu hoa), trận mưa đêm (dạ vũ) với những yếu tố thuộc về tự nhiên đã trỏ thành vật quy chiếu cho những yếu tố thuộc về con người: sự biện biệt cái đúng cái sai (thị phi niệm) suy nghĩ về danh và lợi (danh lợi tâm). Khi hoa đã rụng hết, mưa đã tạnh, núi đã trỏ nên vắng lặng, thì một tiếng chim báo hiệu mùa xuân sắp hết: quy luật sinh diệt tất yếu của thế giới vô thường là như vậy, trên dòng chảy vô thường đó, con người chỉ có thể đạt tới sự an lạc tự tại khi hiểu rõ chân tướng của nó, thuận theo nó…Điều này theo Giáo sư Minh Chi trong cuốn Thiền học đời Trần đã cho rằng: “Thiền Trúc Lâm Yên Tử là lối thiền “Biện tâm”. Không ai khác đại biểu là cư sĩ Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Đọc và suy ngẫm những bài thơ của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông chúng ta thấy, mặc dụ ở cương vị Hoàng đế (thiên tử) thời chế độ quân chủ tập quyền. Nhưng thơ Trần Nhân Tông tuyệt nhiên không có một chút “khẩu khí đế vương” như ta vẫn thấy ở các ông vua hay chữ cùng thời đó là: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Minh Tông, Lê Thánh Tông và gần đây là Tự Đức. Sự khác biệt này, khiến chúng ta thực sự kinh ngạc và kính phục, bởi sự viên dung giữa đời và đạo trong Tư tưởng của Sơ Tổ Trúc lâm.
Những đánh giá nhận định và lạm bàn
Theo “Toàn Việt thi luc”, “Thánh đăng ngữ lục” và “Lịch triều hiến chương loại chí”, trước tác của Trần Nhân Tông bao gồm: “Trần Nhân Tông thi tập”, Đại hương hải án thi tập”, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục”, “Tăng già toái sự”, “Thạch thất my ngữ” và “Trung hưng thực lục”. Tuy vậy, hiện chỉ còn tìm thấy của Trần Nhân Tông 31 bài thơ, một bài minh, một bài tán và hai bài văn nôm biền ngẫu. Về thơ, từ 31 tác phẩm còn lại có thể nhìn ra ở Nhân Tông hoàng đế hai cảm hứng cơ bản, tương ứng với hai mảng đề tài: thế sự và thiền. Mảng thơ Thiền của Sơ Tỏ Trúc lâm chính là một đặc phẩm, không phải chỉ riêng của Trần Nhân Tông, mà là của thi ca Việt Nam Trung đại nói chung. (Ngay cả mảng thơ thế sự) cũng rất đặc biệt.
Trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông còn lại đến nay không nhiều, bộ phận thơ ca nói chung và thơ ca mang cảm xúc, cảm hứng Thiền trong đó lại càng ít hơn nữa. Nhưng đó là cái ít vô cùng cần thiết để hiểu cho rõ và cho đủ hơn về một nhân cách Văn hóa vĩ đại trong lịch sử dân tộc. (Xin nói thêm là trong toàn bộ lịch sử của chế độ quân chủ ở Đông Á, Trần Nhân Tông là trường hợp duy nhất mang diện mạo kép: vừa là Hoàng đế, vừa là Giáo chủ của một tông giáo). Qua một góc thơ Thiền, Trúc Lâm Sơ Tổ đã neo lại, và neo lại được trên dòng nước bạc thời gian một hình ảnh con người đạt Đạo, một con người vượt khỏi cái chấp vào Không và Có để nhập vào cuộc sống bình dị và có ý nghĩa sâu sắc nếu không muốn là vi diệu trong “cuộc đời này”; một con người tu dưỡng cái tâm hài hòa cùng mạch sống của Dân tộc: ăn, ngủ, làm việc đời – đánh giặc cứu nước, vinh danh nước Đại Việt lưu vào thiên cổ.