Top 9 # Xem Nhiều Nhất Vì Sao Lại Cúng 35 Ngày Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Herodota.com

Vì Sao Lại Cúng Sao Giải Hạn?

Câu chuyện cúng sao giải hạn

Hồi chiều, vào FB thấy ở phần tin nhắn có “số đỏ”, bấm xem thấy một “bạn” nhắn: Chúc thầy năm mới mạnh khỏe, mọi việc như ý. Nhân tiện cho MH hỏi là việc cúng sao giải hạn có thật là hiệu quả không?. Lúc sáng, nhỏ bạn rũ con đến chùa… Lúc đầu con chỉ lạy Phật cầu nguyện cho gia đình bình an thôi, nhưng nó kéo con đến thầy…coi sao, Thầy ấy nói là năm nay con sao Kế Đô, hạn xấu, phải cúng giải hạn mới được yên. Con ra về mà lo lắng quá, thầy có cúng sao giúp con hết hạn được không thầy?.

Lễ vật cúng sao giải hạn của Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ.

– Câu hỏi lần này chẳng lẽ tôi lại trả lời (huề vốn) là …bạn nên hỏi ông Google xem cho chắc (như mấy câu hỏi lần trước thì..kỳ quá), mà trả lời thì e rằng sẽ có “động chạm” không ít …. Vì mùa này là mùa …cúng sao mà.

– Tôi hồi âm liều là… bạn muốn cúng sao hay không cúng sao thì cũng…chẳng sao đâu, quan trọng ở chỗ là mỗi ngày bạn sống có chúng tôi sao hay không thôi. (Hì hì).

Cúng sao giải hạn là của Bà-la-môn giáo

– Tập tục cúng sao vốn có từ rất xưa trong Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ, sau đó ảnh hưởng đến Trung Hoa, rồi mới qua nước Việt Nam.

– Các nhà Chiêm tinh xưa cho rằng mỗi năm mỗi người đều có 1 trong 9 sao chiếu. Chín vị sao này, Phạn ngữ gọi là Navagraha, Trung Hoa dịch là Cửu diệu, trong đó có: 3 sao tốt: Thái dương, Thái Âm, Mộc đức. 3 sao xấu: La hầu, Kế đô, Thái bạch. và 3 sao trung: Vân hớn, Thổ tú, Thủy diệu. Và họ cho rằng ai trúng vào sao xấu chiếu mạng thì phải cúng giải hạn mới …hết hạn. – Tôi nghĩ, nếu 9 vị thần sao đó có khả năng “điều khiển”, làm chủ vận mạng của ta, hay “xí xóa” khỏa lấp được những việc làm xấu ác của con người, thì luật công bằng, nhân quả ở đâu?. Chúng ta đã hiểu rõ chưa về giáo lý Nhân quả mà Đức Phật truyền đạt?. (Hay là: “hiểu rồi, nhưng mà…phương tiện trong phương tiện”,…hay lo sợ “nếu mình không tổ chức cúng sao thì sẽ không có tín đồ đến chùa…”?). – Kinh Phật có câu: “Muốn biết quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì (làm tốt hay xấu) thì cứ nhìn cái quả (vui hay khổ) mà chúng ta đang có hôm nay. Muốn biết tương lai chúng ta thế nào thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”.

Đức Phật cũng đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, không nên làm những việc xa rời chánh pháp như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, …, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, …” (Trong Kinh Trường Bộ – Kinh số 2, Sa Môn Quả).

Những vị thầy xuất gia có bao giờ họ làm lễ dương sao, cúng sao, giải hạn cho mình đâu! những bậc thầy luôn chuyên tâm tu hành thiện pháp, làm phước là chuyển nghiệp thì đó là cúng sao giải hạn rồi.

” Chờ đợi các vì sao, Kẻ ngu hỏng điều lành, Điều lành chiếu điều lành, Sao trời làm gì được?”

Hạo Nhiên / Phật học đời sống

Viết theo quan điểm của tác giả

Vì Sao Lại Gọi Là Mâm Ngũ Quả

Con số 5 “ngũ hành” là một con số rất tốt trong quan niệm phong thủy, thể hiện sự phát triển bền vững, mạnh mẽ. Chính vì vậy, mâm ngũ quả ngày Tết nhằm thể hiện mong muốn âm dương hòa hợp, sinh sôi nảy nở, phát triển. Và cũng bởi thế, cho nên ông cha ta đã chọn 5 loại trái cây để cúng vào đêm giao thừa với ngụ ý rằng: những sản vật này được đúc kết từ biết bao công sức, mồ hôi và nước mắt của người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vạn vật sinh tồn.

Ý nghĩa của các loại quả thường được bày biện trên mâm ngũ quả ngày Tết

Chuối: tượng trưng cho con cháu sum vầy, quây quần, đầm ấm hạnh phúc bên nhau và cùng nhau hứng lấy may mắn, luôn bao bọc và che chở cho nhau suốt đời.

Phật thủ: tượng trưng cho bàn tay khổng lồ của Phật Tổ Như Lai luôn che chở cho cả gia đình.

Bưởi: thể hiện mong muốn an khang, thịnh vượng.

Lê, Đào, Cam, Quýt: tượng trưng cho sự thành đạt danh vọng, thăng tiến trong sự nghiệp.

Lựu: mong muốn con đàn cháu đống.

Táo: tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang.

Thanh long: tượng trưng cho rồng mây hội tụ, thể hiện sự phát tài phát lộc.

Quả trứng gà/ Lêkima: là lộc trời cho.

Mỗi loại quả có 1 ý nghĩa khác nhau

Dưa hấu: căng tròn, mát lành thể hiện sự ngọt ngào, may mắn.

Sung: gắn với biểu tượng sung mãn, sức khỏe và tiền bạc.

Đu đủ: nghĩ là đầy đủ, tượng trưng cho sự thịnh vượng.

Xoài: phát âm giống như “xài” tượng trưng cho cầu mong việc tiêu xài không thiếu thốn.

Mặc dù thường có những thức quả trên và đã gọi là mâm ngũ quả thì tất nhiên sẽ phải có đủ 5 loại quả thế nhưng theo từng quan niệm của vùng miền đồng thời phụ thuộc vào mùa xuân hoa trái khác nhau mà mâm ngũ quả ngày Tết cũng có sự khác nhau.

Mâm ngũ quả của người miền Bắc

Ở miền Bắc, đa số mọi người đều bày biện mâm ngũ quả theo thuyết Ngũ hành trong văn hóa phương Đông là nhất nhất vạn vật phải dung hòa cùng trời đất. Do đó, mâm ngũ quả cũng thường phải phối theo 5 màu: kim trắng, mộc xanh, thủy đen, hỏa đỏ, thổ vàng.

Mâm ngũ quả đầy đủ theo ngũ hành của miền Bắc

Năm loại quả xuất hiện trong mâm cúng của người miền Bắc tượng trưng cho ngũ hành, sự đơm hoa kết trái, viên mãn, tròn đầy. Chuối xanh tượng trưng cho hành mộc, như bàn tay hứng lấy may mắn. Quả phật thủ hay quả bưởi có màu vàng là hành thổ, với ý nghĩa đem phúc lộc đầy nhà. Các loại quả đỏ như cam, quýt, hồng là hành hỏa, quả trắng như roi, đào là hành kim và quả đen như mận, hồng xiêm, nho là hành thủy.

Mâm ngũ quả của người miền Nam

Mâm quả Tết: “Cầu vừa đủ xài”: Với tâm hồn phóng khoáng, người miền Nam thường bày các loại quả chính là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, đọc chệch thành “cầu vừa đủ xài”, với mong muốn có một năm mới nhiều tài lộc. Các gia đình cho thêm quả sung – tượng trưng cho sự sung mãn về sức khỏe, tiền bạc.

Mâm ngũ quả của miền Nam không có quả chuối

Ngoài ra, còn có thêm quả thơm (dứa) với mong muốn là con đàn cháu đống đầy nhà hay một cặp dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng để cầu xin sự may mắn. Trong khi, mâm ngũ quả ngày Tết của người miền Bắc có thể thờ chuối, lê…thì người miền Nam lại rất kỵ một số loại quả có phát âm mang tên gọi với ý nghĩa không tốt như chuối gần với từ chúi nhủi, làm ăn không phất lên được, cam, quýt với ý nghĩa cam làm quýt chịu, lê gần với lê lết, đổ bể, thất bại.

Mâm ngũ quả của người miền Trung

Miền Trung được ví như là đòn gánh đỡ 2 đầu Nam Bắc của đất nước ta. Nơi đây vốn là mảnh đất nghèo khó, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt và không hề nhận được sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng một chút nào. Do đó, vào dịp Tết Nguyên đán, ở đây rất ít hoa quả nên người dân cũng không quá câu nệ hình thức. Không cầu kỳ như miền Bắc hay có ý nghĩa đặc biệt như miền Nam, mâm ngũ quả của người miền Trung thường là có gì cúng nấy, chủ yếu là thành tâm dâng kính tổ tiên.

Mâm ngũ quả của miền Trung không cầu kỳ như miền Bắc

Mâm ngũ quả của các tỉnh miền Trung, thường bao gồm thanh long, dưa hấu, xoài, bưởi, nho, táo, cam, lê, mãng cầu, dứa, chuối xanh,… khéo léo điểm thêm những bông cúc vàng xung quanh và đặt thêm hai quả dưa hấu hai bên, tạo dáng cho mâm ngũ quả như hình tháp, thêm phần vững chắc. Với cách bài trí đơn giản, không quá cầu kỳ, qua đó cũng thể hiện phần nào tính cách chân chất của người dân nơi đây. Tuy nhiên, họ không hay dùng chuối xanh (đắng, chát), mà thường lựa những loại quả ngọt ngào, tròn thơm để cầu mong một năm mới an vui, thuận lợi.

Vì Sao Lại Nên Cúng Cô Hồn Vào Buổi Chiều Tối?

Theo Đại đức Thích Tâm Kiên, Trụ trì chùa Một Cột (hay Diên Hựu – Ba Đình – Hà Nội) cho hay, tín ngưỡng dân gian Việt Nam coi tháng 7 là “tháng cô hồn” hay tháng “ma quỷ”.

Còn trong đạo Phật thì tháng 7 được coi là tháng lễ Vu Lan báo hiếu gắn liền với chuyện của Tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ diễn ra từ thời Đức Phật còn tại thế.

Về tín ngưỡng cúng rằm tháng 7, theo Đại đức Kiên, tục lệ này bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian về khoảng thời gian từ mùng 2/7 đến sau 12/7 âm lịch.

Khi đó, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan “thả cửa” cho ma quỷ và kết thúc sau 12 giờ đêm của rằm tháng 7 các ma quỷ phải quay lại địa ngục.

Tính từ ngày 2-14/7 âm lịch là các ngày “mở cửa địa ngục”, các cô hồn được xá tội, thoát về dương thế, vảng vất khắp nhân gian.

Vì tin là ngày mở cửa ngục ân xá cho vong linh nên dân gian sắm cỗ cúng các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa để được bình an, ma quỷ không quấy phá.

Theo vị trụ trì này, việc cúng cô hồn cúng cô hồn mang tính nhân văn cao trong văn hoá Việt Nam cũng như quan niệm ngày xá tội vong nhân là dù con người gây ra những tội ác gì cũng có 1 ngày xá tội để đỡ chịu đau đớn, khổ cực.

Vì thế, mọi người đều cúng chúng sinh bằng cháo loãng, gạo, bỏng, muối… để siêu sinh cho những linh hồn không nơi nương tựa ấy về cảnh giới an lành.

Còn với lễ Vu Lan, mọi người nên phát huy truyền thống thống tốt đẹp của người Việt là báo hiếu tổ tiên. Các gia đình nên đi chùa để làm lễ, cầu siêu cũng như tỏ lòng báo hiếu tới cha mẹ, ông bà và tổ tiên.

Sau đó về nhà làm mâm cơm chay thắp hương lên bàn thờ phật và bàn thờ của người thân đã mất. Nên làm lễ cầu siêu ở mức độ đơn giản, chứ không nhất thiết phải mâm cao cỗ đầy hay nghi thức rườm rà.

Về việc nên chọn ngày nào, giờ nào để cúng rằm tháng 7, theo Đại đức Tâm Kiên, lễ Vu Lan cầu siêu, báo hiếu tổ tiên nên thực hiện ban ngày.

Còn lễ cúng bố thí cho các cô hồn khi tại thế thất cơ lỡ vận, không nơi nương tựa và chịu nhiều oan trái trong xã hội… nên cúng vào buổi chiều tối.

Giải thích thêm về điều này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho rằng, đây là theo quan niệm của dân gian, bởi ban ngày có ánh sáng, ánh nắng mặt trời rất mạnh trong khi các cô hồn được “mở cửa ngục” thả ra rất yếu.

Vì thế, nếu cúng ban ngày, các cô hồn vì sợ ánh sáng, ánh nắng sẽ không dám đến đón nhận những đồ vật phẩm cúng bố thí của các gia đình.

Còn theo một vị Đại đức từng tham gia nhiều khóa lễ “mông sơn thí thực” hay còn gọi là lễ cúng chúng sinh, cô hồn cho biết thêm, thực tế, ở các chùa hay các nơi làm lễ này thường làm vào buổi chiều tối hoặc tối hẳn.

“Vì theo quan niệm dân gian, buổi sáng, ánh nắng sẽ làm bạt, suy yếu các vong linh hồn còn khi đến tối, là thời điểm các vong linh hồn được tích tụ lại.

Do đó, cúng buổi tối thì các cô hồn này mới có thể dễ nhận nhận được đồ mà các gia chủ cúng cho”, vị này nói.

Về thời gian cúng lễ cô hồn nên được thực hiện vào ngày nào, theo các chuyên gia, trước đây, theo quan niệm của dân gian thì từ đêm 14/7 đến 15/7, người ta thường đốt nến, hóa vàng bạc hoặc giết gà vịt cúng.

Tuy nhiên, gần đây, tùy theo sự lựa chọn, công việc mà các gia đình sẽ tự chọn việc cúng cô hồn của mình nhưng tất cả đều phải diễn ra trước 12 giờ đêm ngày 15/7.

Có nên cúng đồ mặn trong mâm cúng cô hồn?

Theo một số nhà nghiên cứu thì, đối với mâm cúng Phật thì chỉ được dùng các đồ chay như hoa quả, bánh kẹo, cháo trắng, xôi… còn với các mâm cúng ông bà, tổ tiên hay cúng cô hồn tháng 7 thì có thể cúng các đồ mặn.

“Thông thường, các gia đình thường chuẩn bị một ít tiền vàng mã, quần áo cúng cô hồn, một đĩa gạo, muối, hoa quả các loại. Cùng với đó là cháo trắng, bỏng ngô, kẹo, các loại củ như khoai lang, ngô, sắn luộc…

Bên cạnh đó là xôi được sắp thành đĩa hay đóng thành các oản xôi nhỏ và một miếng thịt lợn luộc nhỏ hay đĩa giò, thịt gà…

Nhiều gia đình còn sử dụng chính các đồ mặn cúng trong mâm cúng ông bà, tổ tiên trong gia đình cũng không sao cả”, ông Tuấn Anh nói.

Vì Sao Người Ta Lại Nói: ‘Mượn Hoa Dâng Phật’?

Hiện nay chúng ta thường hiểu câu thành ngữ: “Mượn hoa dâng Phật” là dùng thứ của người khác để đem tặng, tặng không xuất phát từ cái tâm, ý nghĩa gần giống với câu “Của người phúc ta”. Cách hiểu này thực ra hoàn toàn trái ngược với nội hàm chân thực của nó…

“Mượn hoa dâng Phật” vốn có nguồn gốc từ câu thành ngữ Hán Việt “Tá hoa hiến Phật”, là một định ngữ trong Phật giáo, kể lại câu chuyện mối nhân duyên đời xưa của Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi tu thành chính quả với người vợ của Ngài.

Truyền thuyết kể rằng: Trước khi tu thành chính quả, Phật Thích Ca Mâu Ni đã trải qua luân hồi nhiều đời. Một trong những đời đó, Ngài là người tu hành Bà La Môn, gọi là Thiện Huệ. Một lần, Thiện Huệ khi đó 16 tuổi tham gia đại hội biện luận của các tăng lữ, được một ít đồ cúng dường, cậu bèn trở về Tuyết Sơn cúng dường sư phụ.

Giữa đường, cậu đi qua một địa phương gọi là thành Liên Hoa. Trong thành trang hoàng vô cùng trang nghiêm thù thắng, thì ra Phật Nhiên Đăng sắp đến đây thuyết Pháp giáo hóa. Thiện Huệ nghĩ: “Chư Phật không cần đồ cúng dường tiền tài, mà vui nhất là cúng dường bằng Pháp, nhưng mình lại chưa đắc Pháp, vậy thì mua hoa cúng Phật”. Nhưng cậu đi tìm tất cả những cửa hàng hoa mà cũng không mua được một bông. Thì ra quốc vương đã bao tiêu tất cả các cửa hàng hoa, ông muốn đem hoa cúng Phật, nên hạ lệnh cho các cửa hàng hoa không được phép bán hoa cho người khác.

Thiện Huệ đi khắp nơi tìm kiếm, gặp một thiếu nữ áo xanh đang lấy nước, thấy cô cất giữ 7 bông hoa sen xanh (Utpala) ở trong bình nước. Thiện Huệ vô cùng vui mừng, muốn dùng 500 lượng vàng mua hoa.

Thiếu nữ áo xanh nói: “Tôi muốn dùng những bông hoa này cúng dường Phật Đà”.

Thiện Huệ hỏi: “Vậy cô có thể bán cho tôi 5 bông, cô giữ 2 bông được không?”

Thiếu nữ hỏi: “Anh mua hoa làm gì?”

Thiện Huệ đáp: “Tôi muốn mua hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng, để cầu tương lai thành tựu Phật quả”.

Thiếu nữ ngắm nhìn kỹ cậu, sau đó nói: “Tôi thấy anh phát tâm dũng mãnh, cầu Pháp tinh tấn, tương lai sẽ thành đại quả vị. Nếu anh đáp ứng với tôi rằng, trước khi anh đắc Đạo thì sẽ đời đời lấy tôi làm vợ, sau khi đắc Đạo thì cho phép tôi xuất gia làm đệ tử của anh, thế thì tôi sẽ tặng hoa cho anh”.

Thiện Huệ nói: “Để đắc Đạo, tôi sẽ buông bỏ hết thảy phú quý vinh hoa, bao gồm cả vợ con, cô có nguyện ý không? Hơn nữa, nếu vì tình yêu của cô mà trở ngại tôi tu Đạo, tội nghiệp của cô sẽ rất lớn. Nếu cô có thể phát nguyện, tương lai tuyệt đối không cản trở hết thảy việc bố thí của thôi, thì tôi sẽ đáp ứng với cô đời sau sẽ lấy cô làm vợ”.

Đôi thiếu niên nam nữ này đều có tâm kiên định cầu Đạo, thế là cùng cam kết với nhau. Thiếu nữ đưa cả 7 bông hoa cho Thiện Huệ, hai bông trong số đó, nhờ cậu thay cô dâng lên cho Phật Đà.

Khi đó, quốc vương và đại chúng đều ra khỏi thành nghênh đón Phật Nhiên Đăng. Thiện Huệ cũng nhanh chóng đến cổng thành, đem 7 bông hoa sen tung lên không về phía Phật Nhiên Đăng. 5 bông hoa quay xuống dưới, giống như một cái lọng vàng che phía trên đỉnh đầu Phật Đà, còn hai đóa hoa của cô thiếu nữ áo xanh kia cúng dường cũng nở trên hai vai Phật Đà.

Lúc đó mặt đất ẩm ướt, còn có một rãnh nước; để tránh làm bẩn chân Phật, Thiện Huệ cởi chiếc áo da hươu của mình ra, trải lên mặt đất, lại lấy tóc của mình trải lên, mặt cúi trên chỗ lầy lội, để Phật Đà giẫm lên thân thể mình đi qua.

Phật Nhiên Đăng cảm niệm được sự thành kính từ nội tâm của Thiện Huệ, thế là Ngài thọ ký cho cậu và nói: “Vô lượng kiếp sau, con nhất định thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni”.

Đây chính là nguồn gốc câu thành ngữ “Tá hoa hiến Phật”.

Chữ “hiến” trong câu “Tá hoa hiến Phật” không chỉ có nghĩa là cúng dường, dâng cúng trên bề mặt, mà còn tượng trưng cho lòng thành tín xả thân cầu Phật. Chữ “hoa” ở đây có nghĩa là hoa Utpala (Ưu bát la hoa), tức là hoa sen xanh.

Thiếu nữ áo xanh sau này trở thành vợ của Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi đắc Đạo, tức thái tử phi Da Du Đà La (Yasodharā). Sau này quy y Phật môn, bà trở thành tỳ kheo ni đầu tiên, chứng ngộ được quả A La Hán.

Quốc vương mua hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng đương nhiên cũng là lòng chân thành, mong muốn thông qua cúng dường Phật mà thoát khỏi bể khổ trần thế, kiến lập công đức cho mình. Nhưng ông không cho phép người khác mua hoa cúng Phật, do đó lòng thành tín của ông đối với Phật là vị tư, là vì lợi ích cá nhân.

Thiếu nữ áo xanh cúng dường Phật là vô tư, cô có thể buông bỏ độc hưởng, nguyện ý chia sẻ công đức với người khác.

Thiện Huệ và thiếu nữ áo xanh cúng dường Phật đều không vì cầu phúc báo, chỉ vì đắc Đạo chân chính.

Vì kính Phật, Thiện Huệ thậm chí không tiếc hết thảy mọi giá. Do đó “Tá hoa hiến Phật”, mấu chốt không phải là “hoa”, mà là là cái tâm chí thành xả bỏ hết thảy.