Top 12 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Của Việc Cúng Dường Tam Bảo Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Herodota.com

Ý Nghĩa Của Việc Dâng Hoa Cúng Dường Tam Bảo

Dâng hoa cúng dường PhậtBậc thương xót muôn loàiDâng hoa cúng dường PhápÐạo nhiệm mầu cứu khổDâng hoa cúng dường TăngRuộng phước không gì bằngHoa tươi đẹp sẽ tànThân giả hợp sẽ tanNguyện tu mau chứng đạtQuả chân thường giải thoát (1).

Phật tử dâng hoa cúng dường đến Đức Phật để tưởng nhớ đến ân đức của Ngài. Vì lòng từ thương xót chúng sanh trong ba cõi, Ngài đã từ bỏ thế gian, ra đi tầm đạo giải thoát để tế độ chúng sanh. Thế Tôn là Người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc (2).

Dâng hoa cúng dường Pháp bảo để tưởng nhớ đến ân đức của Giáo pháp, những lời dạy của Thế Tôn được lưu lại trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sinh và được gìn giữ trong Tam tạng kinh điển. Pháp bảo chính là diệu dược có công năng tiêu diệt các bệnh phiền não của chúng sanh. Những ai thực hành theo Pháp bảo sẽ được mọi sự an lành, tiến hóa trong đời này và đời sau. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, không phải là chúng ta không còn Đạo sư hướng dẫn, chính những gì Ngài đã giảng dạy sẽ trở thành Đạo sư cho các hàng đệ tử noi theo. Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các ngươi (3).

Dâng hoa cúng dường Tăng bảo, những đệ tử xuất gia của Đức Phật, các ngài đã đắc quả Thánh hoặc còn phàm, là mô phạm của quần sanh, là vô thượng phước điền của chư thiên và nhân loại. Chư Thánh hiền tăng là những vị Thánh đệ tử đã đắc đạo quả giải thoát, gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; còn các vị phàm tăng là những vị đang nỗ lực thực hành Giáo pháp để tiến tới đạo quả giải thoát trong ngày vị lai. Những vị ấy vừa là việc tu học cho bản thân mà cũng là thực hành hạnh nguyện sứ giả Như Lai, đem giáo pháp thuyết giảng cho những người có tâm cầu học đạo giải thoát. Vì thế, các ngài cũng xứng đáng được cung kính, cúng dường.

Cúng dường hương hoa đến Tam bảo, chọn hoa tốt, chưng hoa đẹp để thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ ân đức Tam bảo. Rồi hoa đó sẽ úa tàn, cũng vậy thân người này cũng phải già, bệnh và chết. Đó chính là quy luật của thế gian, không ai tránh khỏi được. Chính Đức Phật đã thuyết như vậy. Pháp sanh lên do nhân/ Như Lai giảng nhân ấy/ Nhân diệt thời Pháp diệt/ Đại Sa-môn nói vậy (4).

Vạn vật đều vô thường, không có gì trường cửu. Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt (5). Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong, thân tâm của chúng ta cũng vậy. Vì thế, cúng dường hoa thơm cũng đừng dính mắc đến sắc và hương, hãy lấy đặc tính sớm nở tối tàn của hoa để khéo tác ý và tu tập. Bởi cứ bám chấp vào những thứ không có thật, chúng sanh mãi đau và khổ không thôi. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và nguyện tu mau chứng ngộ quả chân thường giải thoát.

Dẫu biết có thân đây là khổ, tuy nhiên, cũng chính do thân này, người trí sẽ biết tận dụng để tạo thêm nhiều thiện pháp và tu tập, còn kẻ mê thì mải chạy theo dòng đời, mà bản chất của nó vốn dĩ là vô thường, đi đến hủy diệt, vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả, và thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái (6). Ví như một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi gom các thứ hoa dồn thành đống lớn, rồi từ đó kết thành nhiều tràng hoa khác nhau, cũng vậy nhờ thân sanh tử này mà chúng ta làm thêm nhiều việc phước.

Như từ một đống hoaNhiều tràng hoa được kếtCũng vậy, thân sanh tửLàm được nhiều thiện sự (7).

Lại nữa, trong các loại hương hoa, chúng chỉ bay thuận theo chiều gió chứ không thể bay ngược lại. Tuy vậy, có một loại hương thơm có thể bay xuôi, bay ngược và cả lên không trung thiên giới nữa, đó chính là hương thơm đức hạnh.

Một buổi chiều nọ, trong khi đang ngồi tư duy quán tưởng, Tôn giả Ānanda chợt nghĩ: Thế Tôn có nói đến ba loại hương rất ưu việt là hương từ rễ cây, hương từ lõi cây và hương từ hoa. Cả ba thứ hương đều bay theo chiều gió. Không biết có thứ hương nào có thể bay ngược gió, hoặc vừa bay thuận vừa bay nghịch gió? Tôn giả đến hỏi Thế Tôn, và Ngài trả lời: Này Ānanda, ở đây nơi thôn quê hay thành thị nào có một nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say, là người có giới đức, là người có thiện pháp. Tâm đã dứt bỏ sự bỏn sẻn, sự nhiễm ô. Tuy còn tại gia mà có tâm dứt bỏ, xả thí, thỏa thích trong sự bố thí không nhơ bợn, biết thông cảm đến người xin, hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người. Thì từ nơi thôn quê hay thành thị đó, cho đến các phương hướng, chư Sa-môn và Bà-la-môn hằng ca tụng rằng: Nơi chốn thôn quê hoặc thành thị đó, có nữ nhân ấy, có nam nhân ấy là người quy y Phật… hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người. Này Ānanda, đó là giống hương mà hương của nó bay xuôi lẫn ngược chiều gió vậy. Sau đó, Thế Tôn liền thuyết kệ:

Hương các loài hoa thơmKhông ngược bay chiều gióNhưng hương người đức hạnhNgược gió khắp tung bay (8).

Một hôm, Tôn giả Mahākassapa (Đại Ca-diếp) xuất định sau bảy ngày nhập diệt thọ tưởng định, đi ra ngoài với ý định khất thực. Lúc đó, Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) muốn cúng dường Tôn giả, liền biến thành một người thợ dệt già lụm khụm, thiên hậu Sujātā cũng biến thành một bà già. Rồi Sakka dùng thần lực tạo một ngõ hẻm thợ dệt, và ngồi quay sợi. Lúc ấy, Tôn giả Mahākassapa đang đi vào thành, vẫn tâm niệm dành phước cho người nghèo. Ngài nhìn quanh rồi chú ý đến hai ông bà già, nghĩ rằng già cả lụm cụm như thế mà phải làm việc thì hẳn là người nghèo, chỉ cần một vá cơm sớt cho ngài là có thể tế độ cho họ có phước. Do đó Tôn giả tiến đến họ. Hai ông bà ngỏ lời cúng dường đặt vật thực vào bát. Lập tức, phần cúng dường đó tỏa mùi thơm ngát cả kinh thành Rājagaha. Tôn giả thắc mắc sao trông ông lão này yếu đuối thiếu thốn mà thức ăn lại dồi dào như của Thiên chủ Sakka. Khi quán xét biết rõ là Thiên chủ Sakka, Trưởng lão trách rằng:

– Ông đã cướp đoạt của người nghèo cơ hội tạo công đức.

– Bạch Tôn giả, có người nào nghèo hơn con chăng?

– Sao ông lại nghèo, khi đang hưởng phú quý trên cung trời?

– Bạch Tôn giả, lý do như sau. Trước khi Phật xuất hiện ở thế gian con đã tạo nhiều công đức.

Khi Phật xuất hiện ở thế gian, có ba vị trời cùng đẳng cấp với con, vì tạo nhiều công đức nên được nhiều oai lực hơn con. Vậy, bạch Tôn giả, ai nghèo hơn?

– Nếu đúng như thế thì từ đây đừng đánh lừa ta để cúng dường nữa.

– Con có được công đức hay không nếu lừa dối để cúng dường?

– Có, đạo hữu ạ.

– Nếu đúng thế, bạch Tôn giả, con có bổn phận phải tạo nhiều công đức.

Nói xong Sakka chào Trưởng lão, đi nhiễu quanh nói lên câu kệ: Ôi cúng dường, cúng dường Ba-la-mật, đã khéo dâng ngài Mahākassapa được rồi!

Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, Thế Tôn nghe Thiên chủ Sakka trong khi bay trên không, đã ba lần ngâm câu kệ trên, khi ấy Thế Tôn liền nói:

Ít giá trị hương nàyHương già-la, chiên-đànChỉ hương người đức hạnhTối thượng tỏa thiên giới (9).

Hương đức hạnh của các vị giới đức cao quý khiến cho cả thiên giới phải nghiêng mình kính nể thì nói chi là nhân loại chúng ta. Các ngài an trú trong giới hạnh và tu hành nên càng được kính nể. Hãy học những hạnh lành của các ngài để noi theo tu tập. Tu phải hành, cũng giống như nói là phải làm, chứ nói mà không làm thì lời nói vô dụng, không đem đến kết quả hay lợi ích chi cả, ví như hoa có sắc nhưng chẳng có hương thơm.

Như vậy, dâng hoa cúng dường Tam bảo chính là cơ hội để mình học từ hoa những bài học vô thường, hương thơm đức hạnh, khéo nói thì phải khéo làm… Từ việc dâng hoa cúng dường thường ngày, nếu khéo tác ý thì việc cúng dường ấy cũng trở thành một pháp tu thiết thực, mang đến an lạc cho hàng Phật tử.

Ý Nghĩa Của Việc Dâng Hoa Cúng Dường Tam Bảo Là Gì?

Dâng hoa cúng dường Tam bảo là một việc làm không thể thiếu trong việc cúng dường của các Phật tử. Tuy nhiên vẫn có nhiều người chưa hiểu rõ được ý nghĩa của việc dâng hoa cúng dường Tam bảo là gì?

Có câu:

Dâng hoa cúng dường Phật

Bậc thương xót muôn loài

Dâng hoa cúng dường Pháp

Ðạo nhiệm mầu cứu khổ

Dâng hoa cúng dường Tăng

Ruộng phước không gì bằng

Hoa tươi đẹp sẽ tàn

Thân giả hợp sẽ tan

Nguyện tu mau chứng đạt

Quả chân thường giải thoát .

Phật tử thường hay dâng cúng nhang đèn, bông hoa lên bàn thờ Phật như là một cách tôn kính và tưởng nhớ đến ân đức Tam bảo. Hương hoa, nhang đèn là phẩm vật không thể thiếu trong việc cúng dường. Khi nhang đèn cháy hết và những bông hoa héo tàn qua thời gian nhắc nhở tất cả chúng ta rằng cuộc sống này chỉ là phù du thoáng qua, tất cả đều sẽ biến hoại, cuộc sống vốn dĩ vô thường.

Dâng hoa cúng dường Pháp bảo để tưởng nhớ đến ân đức của Giáo pháp, những lời dạy của Thế Tôn được lưu lại trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sinh và được gìn giữ trong Tam tạng kinh điển. Pháp bảo chính là diệu dược có công năng tiêu diệt các bệnh phiền não của chúng sanh. Những ai thực hành theo Pháp bảo sẽ được mọi sự an lành, tiến hóa trong đời này và đời sau. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, không phải là chúng ta không còn Đạo sư hướng dẫn, chính những gì Ngài đã giảng dạy sẽ trở thành Đạo sư cho các hàng đệ tử noi theo. Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các ngươi

Dâng hoa cúng dường Tăng bảo, những đệ tử xuất gia của Đức Phật, các ngài đã đắc quả Thánh hoặc còn phàm, là mô phạm của quần sanh, là vô thượng phước điền của chư thiên và nhân loại. Chư Thánh hiền tăng là những vị Thánh đệ tử đã đắc đạo quả giải thoát, gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; còn các vị phàm tăng là những vị đang nỗ lực thực hành Giáo pháp để tiến tới đạo quả giải thoát trong ngày vị lai. Những vị ấy vừa là việc tu học cho bản thân mà cũng là thực hành hạnh nguyện sứ giả Như Lai, đem giáo pháp thuyết giảng cho những người có tâm cầu học đạo giải thoát. Vì thế, các ngài cũng xứng đáng được cung kính, cúng dường.

Cúng dường hương hoa đến Tam bảo, chúng ta nên chọn hoa tốt, chưng hoa đẹp để thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ ân đức Tam bảo. Rồi hoa đó sẽ úa tàn, cũng vậy thân người này cũng phải già, bệnh và chết. Đó chính là quy luật của thế gian, không ai tránh khỏi được. Chính Đức Phật đã thuyết như vậy. Pháp sanh lên do nhân/ Như Lai giảng nhân ấy/ Nhân diệt thời Pháp diệt/ Đại Sa-môn nói vậy .

Vạn vật đều vô thường, không có gì trường cửu. Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt. Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong, thân tâm của chúng ta cũng vậy. Vì thế, cúng dường hoa thơm cũng đừng dính mắc đến sắc và hương, hãy lấy đặc tính sớm nở tối tàn của hoa để khéo tác ý và tu tập. Bởi cứ bám chấp vào những thứ không có thật, chúng sanh mãi đau và khổ không thôi. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và nguyện tu mau chứng ngộ quả chân thường giải thoát.

Dẫu biết có thân đây là khổ, tuy nhiên, cũng chính do thân này, người trí sẽ biết tận dụng để tạo thêm nhiều thiện pháp và tu tập, còn kẻ mê thì mải chạy theo dòng đời, mà bản chất của nó vốn dĩ là vô thường, đi đến hủy diệt, vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả, và thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. Ví như một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi gom các thứ hoa dồn thành đống lớn, rồi từ đó kết thành nhiều tràng hoa khác nhau, cũng vậy nhờ thân sanh tử này mà chúng ta làm thêm nhiều việc phước.

Như từ một đống hoa

Nhiều tràng hoa được kết

Cũng vậy, thân sanh tử

Làm được nhiều thiện sự.

Trong các loại hương hoa, chúng chỉ bay thuận theo chiều gió chứ không thể bay ngược lại. Tuy vậy, có một loại hương thơm có thể bay xuôi, bay ngược và cả lên không trung thiên giới nữa, đó chính là hương thơm đức hạnh.

Như vậy, dâng hoa cúng dường Tam bảo chính là cơ hội để mình học từ hoa những bài học vô thường, hương thơm đức hạnh, khéo nói thì phải khéo làm… Từ việc dâng hoa cúng dường thường ngày, nếu khéo tác ý thì việc cúng dường ấy cũng trở thành một pháp tu thiết thực, mang đến an lạc cho hàng Phật tử.

Thiện Tâm

Thanh Tâm

Ý Nghĩa Của Việc Dâng Hoa Cúng Dường Tam Bảo Là Gì? – Pháp Phục An Nhiên

Phật tử dâng hoa cúng dường đến Đức Phật để tưởng nhớ đến ân đức của Tam bảo. Vì lòng từ thương xót chúng sanh trong ba cõi, Ngài đã từ bỏ thế gian, ra đi tầm đạo giải thoát để tế độ chúng sanh. Thế Tôn là Người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.

Có câu:

Dâng hoa cúng dường Phật

Bậc thương xót muôn loài

Dâng hoa cúng dường Pháp

Ðạo nhiệm mầu cứu khổ

Dâng hoa cúng dường Tăng

Ruộng phước không gì bằng

Hoa tươi đẹp sẽ tàn

Thân giả hợp sẽ tan

Nguyện tu mau chứng đạt

Quả chân thường giải thoát .

Phật tử thường hay dâng cúng nhang đèn, bông hoa lên bàn thờ Phật như là một cách tôn kính và tưởng nhớ đến ân đức Tam bảo. Hương hoa, nhang đèn là phẩm vật không thể thiếu trong việc cúng dường. Khi nhang đèn cháy hết và những bông hoa héo tàn qua thời gian nhắc nhở tất cả chúng ta rằng cuộc sống này chỉ là phù du thoáng qua, tất cả đều sẽ biến hoại, cuộc sống vốn dĩ vô thường.

Dâng hoa cúng dường Pháp bảo để tưởng nhớ đến ân đức của Giáo pháp, những lời dạy của Thế Tôn được lưu lại trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sinh và được gìn giữ trong Tam tạng kinh điển. Pháp bảo chính là diệu dược có công năng tiêu diệt các bệnh phiền não của chúng sanh. Những ai thực hành theo Pháp bảo sẽ được mọi sự an lành, tiến hóa trong đời này và đời sau. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, không phải là chúng ta không còn Đạo sư hướng dẫn, chính những gì Ngài đã giảng dạy sẽ trở thành Đạo sư cho các hàng đệ tử noi theo. Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các ngươi.

Dâng hoa cúng dường Tăng bảo, những đệ tử xuất gia của Đức Phật, các ngài đã đắc quả Thánh hoặc còn phàm, là mô phạm của quần sanh, là vô thượng phước điền của chư thiên và nhân loại. Chư Thánh hiền tăng là những vị Thánh đệ tử đã đắc đạo quả giải thoát, gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; còn các vị phàm tăng là những vị đang nỗ lực thực hành Giáo pháp để tiến tới đạo quả giải thoát trong ngày vị lai. Những vị ấy vừa là việc tu học cho bản thân mà cũng là thực hành hạnh nguyện sứ giả Như Lai, đem giáo pháp thuyết giảng cho những người có tâm cầu học đạo giải thoát. Vì thế, các ngài cũng xứng đáng được cung kính, cúng dường.

Cúng dường hương hoa đến Tam bảo, chúng ta nên chọn hoa tốt, chưng hoa đẹp để thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ ân đức Tam bảo. Rồi hoa đó sẽ úa tàn, cũng vậy thân người này cũng phải già, bệnh và chết. Đó chính là quy luật của thế gian, không ai tránh khỏi được. Chính Đức Phật đã thuyết như vậy. Pháp sanh lên do nhân/ Như Lai giảng nhân ấy/ Nhân diệt thời Pháp diệt/ Đại Sa-môn nói vậy .

Vạn vật đều vô thường, không có gì trường cửu. Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt. Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong, thân tâm của chúng ta cũng vậy. Vì thế, cúng dường hoa thơm cũng đừng dính mắc đến sắc và hương, hãy lấy đặc tính sớm nở tối tàn của hoa để khéo tác ý và tu tập. Bởi cứ bám chấp vào những thứ không có thật, chúng sanh mãi đau và khổ không thôi. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và nguyện tu mau chứng ngộ quả chân thường giải thoát.

Dẫu biết có thân đây là khổ, tuy nhiên, cũng chính do thân này, người trí sẽ biết tận dụng để tạo thêm nhiều thiện pháp và tu tập, còn kẻ mê thì mải chạy theo dòng đời, mà bản chất của nó vốn dĩ là vô thường, đi đến hủy diệt, vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả, và thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. Ví như một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi gom các thứ hoa dồn thành đống lớn, rồi từ đó kết thành nhiều tràng hoa khác nhau, cũng vậy nhờ thân sanh tử này mà chúng ta làm thêm nhiều việc phước.

Như từ một đống hoa

Nhiều tràng hoa được kết

Cũng vậy, thân sanh tử

Làm được nhiều thiện sự.

Trong các loại hương hoa, chúng chỉ bay thuận theo chiều gió chứ không thể bay ngược lại. Tuy vậy, có một loại hương thơm có thể bay xuôi, bay ngược và cả lên không trung thiên giới nữa, đó chính là hương thơm đức hạnh.

Như vậy, dâng hoa cúng dường Tam bảo chính là cơ hội để mình học từ hoa những bài học vô thường, hương thơm đức hạnh, khéo nói thì phải khéo làm… Từ việc dâng hoa cúng dường thường ngày, nếu khéo tác ý thì việc cúng dường ấy cũng trở thành một pháp tu thiết thực, mang đến an lạc cho hàng Phật tử.

Ý Nghĩa Của Việc Cúng Dường Chư Phật

Chúng ta thường thấy có rất nhiều người mua hoa tươi, trái cây cúng dường Phật, Bồ Tát đồng thời cũng đốt hương, đốt đèn sáp để cầu Phật Bồ Tát bảo hộ bình an, khỏe mạnh, thăng quan phát tài. Vậy dụng ý sâu xa của việc làm ấy là gì? Có phải Phật, Bồ Tát cần dùng những thứ này chăng? #Dongtayy #Đông_tây_y

Thực ra chư Phật, Bồ Tát nhất định không cần những thứ này. Tất cả những vật phẩm đem cúng dường chư Phật, Bồ Tát đều mang dụng ý là giáo học. Nếu dùng lời hiện đại mà nói thì những thứ ấy chính là công cụ để hoằng pháp độ sinh. Để khi chúng ta tiếp xúc với chúng liền có thể thức tỉnh.

Với việc cúng hoa ở trước tượng Phật thì có ý nghĩa như sau. Hoa là đại biểu nhân, do tất cả các pháp đều không rời khỏi nhân và quả. Phật thường nói trên các kinh Đại Thừa là “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”. Nhân quả là nói sự biến chuyển của tất cả vạn pháp. Nhân sẽ biến thành quả, Quả sẽ biến thành Nhân. Nhân quả thay đổi lẫn nhau, tiếp nối không ngừng. Bởi vậy, nhân quả là nói sự thay đổi vô cùng vô tận. Đây là chân tướng sự thật, do đó nói “nhân quả bất không.”

Do vì nở hoa trước kết quả sau, hoa là nhân phía sau là quả. Cho nên cúng hoa là đại biểu Tu Nhân, hoa tốt thì chúng ta nghĩ ngay đến quả nhất định sẽ tốt. Do đó thấy hoa ta liền phải nghĩ ngay đến việc chúng ta phải Tu Nhân Thiện, tương lai về sau mới có thể có được quả báu tốt. Hoa chính là biểu thị cho ý nghĩa này.

Còn cúng quả chính là biểu thị cho quả báu, là khi chúng ta cầu “hoa” đẹp, “hoa” thơm thì cần phải tu. Trong Phật giáo Đại thừa, Hoa đại biểu Lục độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định, Bát nhã. Đây gọi là Hoa Lục Độ. Sau đó mới có thể đạt được quả báu viên mãn.

Như vậy hoa cúng Phật là biểu thị nhân hành. Vậy sau khi rời khỏi Phật điện, nhìn thấy Hoa bên ngoài ta có khởi cái ý này không? Chắc chắn là nên rồi. Có hiểu được Phật pháp, chỉ cần nhìn thấy Hoa liền nhắc nhở chính mình, nhất định phải tu nhân thiện, phải tu nhân tốt, thì mới có thể có được quả tốt, được quả thiện. Đây chính là ý nghĩa trọn vẹn của việc cúng dường chư Phật, Bồ Tát hoa tươi và quả ngọt.

Trong các loại đồ cúng dường, đơn giản nhưng quan trọng nhất chính là một ly nước trong sạch. Nhìn ly nước, tâm của ta có thanh tịnh như nước, một trần không nhiễm hay không? Cho nên ly nước không phải cúng dường cho Phật uống mà là để cho chúng ta quán chiếu lại chính mình. Nước biểu thị cho Tâm. Nước trong sạch biểu thị Tâm thanh tịnh.

Khi nước không nổi sóng là bình, biểu thị bình đẳng. Cho nên cúng dường một ly nước, nhìn thấy nước nghĩ ngay đến tâm thanh tịnh, bình đẳng. Đây chính là đồ cúng vô cùng quan trọng. Chỉ một ly nước cũng có thể giúp ta thế hội được pháp Phật trong cuộc sống.

Cho nên bạn có thể không thắp hương, không cần đốt đèn nến cũng không cần có hương hoa, oản quả cúng dường. Thế nhưng không thể không cúng một ly nước. Bởi lúc này ly nước là đại biểu Tâm thanh tịnh, Tâm bình đẳng, Tâm từ bi. Nhìn thấy nước liền quán chiếu đến chính mình. Ở ngay trong tất cả hoàn cảnh phải biết giữ Tâm thanh tịnh và bình đẳng. Tâm thanh tịnh và bình đẳng chính là Tâm Phật.

Giáo pháp của Đức Phật lúc nào cũng ẩn chứa trong những điều giản đơn chứ không phải là những thứ cao siêu, khó hiểu. Chính vì vậy, chúng ta cần ghi nhớ hương hoa, trái cây, bát nước cúng dường chư Phật, Bồ Tát không phải để cho các Ngài thọ dụng hay bắt ép chúng ta phải làm như vậy. Tất cả những gì Ngài muốn chúng ta làm chính là đoạn ác, tu thiện, lúc nào cũng phải giữ cho mình thân tâm bản tánh thật thanh tịnh.

Như vậy, tất cả những vật phẩm đem cúng dường chư Phật, Bồ Tát đều mang dụng ý là giáo học. Nhờ vào những thứ đồ cúng này, mỗi giờ mỗi khắc ta đều tự nhắc nhở chính mình sao cho sáu căn của mình tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, niệm niệm đều có thể đạt được giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh là không nhiễm.

Nguyễn Linh Chi/ Nguồn: Giáo hội Phật giáo Việt Nam