Đề Xuất 5/2023 # Vấn Đề Xả Tang Cho Cha Mẹ # Top 9 Like | Herodota.com

Đề Xuất 5/2023 # Vấn Đề Xả Tang Cho Cha Mẹ # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Vấn Đề Xả Tang Cho Cha Mẹ mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hỏi: Kính bạch thầy, trường hợp cha mẹ mình chết ở Việt Nam, nhưng vì hoàn cảnh bất như ý mà không về để chịu tang cho cha mẹ được, con có thể tới chùa ở đây để xin làm lễ thọ tang và sau 49 ngày xin xả tang. Xin hỏi: như thế có được không?

Đáp: Xin thưa ngay là được không có gì trở ngại. Trường hợp của Phật tử vì một lý do hoàn cảnh nào đó quá đặc biệt, ngoài ý muốn, nên khi hay tin cha hay mẹ mình mất mà không thể về Việt Nam được để thọ tang, thì Phật tử và gia quyến trong thân thuộc có thể đến chùa để xin chư Tăng Ni làm lễ thọ tang. Điều nầy, theo tôi, thì không có gì là bất hiếu hay khó xử cả.

Cần nói thêm, việc cư tang, đây là một phong tục bắt nguồn từ Nho Giáo mà ra. Trong Phật giáo không có đề cập đến việc phục sức tang chế. Tang chế là một hình thức biểu lộ lòng thành hiếu thảo của người con. Quan niệm của tổ tiên ta, coi sự tử như sự sinh. Lúc còn sống mình đối xử với những người thân thuộc như ông bà cha mẹ… của mình như thế nào, thì khi chết cũng phải cư xử như thế đó. Do vậy, nên việc để tang là một biểu nghi hình thức để bày tỏ nỗi nhớ thương người đã khuất bóng.

Ngày xưa, việc cư tang rất lâu, phải qua cái lễ cúng đại tường. Đại tường là 2 năm còn tiểu tường là một năm. Cho nên, ngày xưa các con cháu phải để tang cho cha mẹ ông bà phải đúng 2 năm mới xả. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường. Nhưng về sau nầy, người ta lại giảm lần đi. Vì để tang lâu, có nhiều việc bất tiện, trở ngại nhiều thứ, nhứt là trong vấn đề cưới hỏi hoặc làm ăn v.v…

Từ đó mà người mình không còn giữ đúng theo phong tục ngày xưa nữa. Bây giờ, thông thường là sau 49 ngày là con cháu có thể làm lễ xả tang.

Như vậy, Phật tử cứ đến chùa xin chư Tôn đức Tăng Ni để làm lễ thọ và xả tang đều được cả. Đây là vì hoàn cảnh bất khả kháng, chớ kỳ thật Phật tử đâu có muốn như thế. Vì cha mẹ hay ông bà là những người thân thuộc nhứt đời mình, lẽ ra là mình phải về để cư tang mới đúng đạo làm con, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc phải như thế. Xin Phật tử cứ yên tâm, không ai trách cứ Phật tử khi mà hoàn cảnh không cho phép.

Chương 61: 60. Vấn Đề Xả Tang Theo Ý Muốn

Hỏi: Kính thưa thầy, Chúng con thường đi hộ niệm thấy có nhiều trường hợp con cháu của người mất, sau khi chôn cất hoặc hỏa táng xong, thì họ muốn xả tang ngay. Vì họ cho rằng để tang sẽ không được may mắn. Như vậy, thì mình có nên xả tang theo ý muốn của họ hay không?

Đáp: Theo tôi, nếu họ muốn xả tang ngay thì mình cứ xả tang cho họ không có gì trở ngại. Thật ra vấn đề cư tang, phải nói rõ, đây không phải là tục lệ của Phật giáo bày ra. Tục lệ nầy bắt nguồn từ người Trung Hoa. Vì người Trung Hoa đã có mặt lâu đời trên đất nước Việt Nam. Căn cứ theo sử liệu cho biết, thì họ đã xâm chiếm và cai trị đất nước Việt Nam ta trải dài có cả một ngàn năm. Thường người ta hay gọi là một ngàn năm Bắc thuộc. Do đó, nên những phong tục tập quán lễ nghi của họ, tất nhiên, là người mình đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm. Hơn nữa, trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật và Lão, cả ba nguồn văn hóa nầy đều có sự sinh hoạt trộn lẩn hòa quyện với nhau một cách rất chặt chẽ khắn khít.

Vì thế, nên việc cư tang đây là theo tập tục văn hóa của Nho giáo. Theo Nho giáo chủ trương, thì con người phải lấy việc hiếu thảo làm đầu. “Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là ngàn quyển kinh hay vạn quyển sách đều phải lấy việc hiếu nghĩa làm trước. Cho nên, người ta cư tang với mục đích là để bày tỏ nỗi lòng hiếu thảo của những người còn sống đối với người đã chết. Vì họ quan niệm “sự tử như sự sanh”. Nghĩa là lúc còn sống đối xử với nhau như thế nào, thì khi chết cũng phải đối xử như thế ấy. Xét thấy, việc chủ trương lấy đạo hiếu làm nền xây dựng đạo đức nhân bản, nó rất phù hợp với nền văn hóa của dân ta. Nên từ đó, người mình bắt mới chước làm theo. Và cũng từ đó, nó trở thành một phong tục tập quán lâu đời và truyền mãi cho đến hôm nay. Phải nói, vấn đề cư tang, với thâm ý là người ta muốn biểu lộ tấm lòng chân thành của người còn sống, hằng nhớ đến thâm ân của người đã khuất. Nhưng việc cư tang nầy, hiện nay, ngưòi ta không còn giữ đúng như tục lệ ngày xưa nữa.

Xưa kia, con cháu phải để tang cho ông bà cha mẹ thời gian ít nhất là phải hai năm. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường, thì con cháu mới được xả tang. Và trong thời gian cư tang nầy, con cháu không được cưới hỏi, vì người ta cho rằng đó là điều không tốt. Cho nên, đối với người đang cư tang, họ kiêng cử đủ thứ. Ngày nay, vì công việc làm ăn, học hành thi cử, hoặc cưới hỏi, hơn nữa phần lớn ảnh hưởng theo nếp sống của người Tây phương, nên vấn đề cư tang không trở nên gò bó theo tục lệ xưa. Phần nhiều là sau 49 ngày, tức xong cái lễ chung thất, thì người ta xin xả tang. Không có ai chịu cư tang cho qua cái lễ giỗ đầu. Có người còn xin xả tang liền, sau khi mai táng hoặc hỏa táng. Lý do là vì họ coi việc để tang là một việc không mấy may mắn trong những việc như: cưới hỏi, thi cử, khai trương cửa tiệm, hoặc đi xa v.v…

Do đó, tục lệ cư tang tùy theo thời đại mà nó có sự thay đổi. Vì thế, tùy theo yêu cầu ý muốn của tang quyến mà chúng ta làm theo, thiết nghĩ, cũng không có gì là lỗi đạo sai trái. Vấn đề thời gian ngắn hay dài, lâu hay mau không thành vấn đề nữa. Thật ra hiếu thảo hay không là ở nơi lòng người. Còn tang chế, cũng như các hình thức lễ nghi khác, tất cả chỉ là biểu lộ cho tấm lòng của con người mà thôi. Điều quan trọng là việc hành xử của con người có theo đúng lễ giáo đạo đức hay không? Đó mới là điều quan trọng đáng nói. Có nhiều khi, ông bà cha mẹ mới chết, mà con cháu lại tranh chấp đấu đá tranh giành hơn thua với nhau, hoặc giả sát sanh hại vật cúng tế linh đình. Việc làm đó chỉ làm khổ cho người mới chết mà thôi, chớ không có ích lợi chi cả.

Nếu là người Phật tử thì chúng ta nên cẩn thận việc làm nầy. Chúng ta phải hết lòng giúp cho hương linh của người mất chóng được siêu thoát. Việc cúng kiến ta nên hạn chế tối đa, chỉ làm theo lễ nghi đơn giản theo lời Phật dạy mà thôi. Nhất là không được sát sanh hại vật để cúng tế cho người mất. Vì như thế, người mất sẽ mang trọng tội khó mà siêu thoát.

Tóm lại, chúng ta cứ làm theo ý muốn của họ, muốn xả tang lúc nào cũng được. Theo tôi, việc làm nầy không có gì chống trái hay có lỗi với người mất cả.

Lễ Phát Tang, Để Tang, Xả Tang

Theo quan niệm xưa: Người chết là bắt đầu cuộc sống ở một thế giới khác “Sống gửi – Thác về”. Bởi vậy, theo tục xưa trong tang chế có rất nhiều nghi lễ để tiễn đưa vong hồn người đã khuất sang thế giới bên kia được trọn vẹn, chu đáo, thể hiện lòng thành, làm trọn đạo hiếu.

Những sự xúc động, những tình cảm vui buồn bởi cách cư xử đối với nhau khó mà cảm nhận rõ ràng trong những lúc bình thường chưa có biến cố gì, hoặc nếu có thì chỉ sơ sơ thôi, thì cái tình thương yêu, lòng hiếu thảo, điều ân nghĩa, cùng mọi sự ăn năn, hối hận đối với người thân như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, họ hàng, bạn bè v…v… ít được tỏ rõ và ít mãnh liệt;

Nhưng khi có biến cố như Sự Chết Chóc, thì những thứ tình cảm này được bộc lộ một cách mạnh mẽ, chân thành rõ rệt nhất qua những truyền thống và hình thức của các lễ Phát Tang, lễ Để Tang, lễ Xả Tang và những buổi lễ lạy để cầu xin sự độ trì cho người quá cố. Sở dĩ có những truyền thống này là để chúng ta có cơ hội tỏ lòng : Hiếu hạnh, yêu thương, biết ơn, luyến tiếc cũng như những sự hối hận, ăn năn đối với người đã chết.

Với truyền thống, hình thức của những Lễ Lạy ấy mặc dầu chưa rốt ráo cho lắm, nhưng cũng là điều rất tốt để chúng ta có dịp nhóm họp đông đảo, để giúp đỡ, để hộ niệm, để tỏ lòng kính thương, tiếc nuối nhau đồng thời cũng là có dịp nói lên những điều suy tư hợp lý, hợp tình và hữu hiệu hơn cho việc Phát Tang, Để Tang, Xả Tang này. Vậy trong lúc thi hành với những Truyền Thống Lễ Lạy của Tang lễ, hỏi chúng ta có một chút suy tư gì không? Hay chỉ tự động làm theo những tục lệ đã vạch sẵn, là khi sự việc xẩy ra như thế thì phải làm như thế là đã trọn vẹn mọi ân tình, mọi sự hiếu đễ, sót thương đối với người thân yêu của chúng ta rồi! Trong thực tế liệu có đúng như vậy không? Hãy thử luận bàn, vì trước khi làm một việc gì quan trọng, chúng ta không thể không tìm hiểu cho rõ ràng về việc đó.

Trước hết chúng ta hãy định nghĩa cho rõ ràng, khúc triết hơn về việc Phát Tang, Để Tang và Xả Tang này, rồi sau đó sẽ bàn sâu rộng hơn, trọn vẹn hơn về những việc báo hiếu, việc ân đền, nghĩa trả cùng lòng kính trọng, tiếc thương đối với người quá cố.

Định nghĩa tổng quát

Lễ phát tang là sự bắt đầu thi hành cho việc buồn thương, tiếc nuối người đã chết.

Lễ để tang là đang thi hành nhiệm vụ và bổn phận của sự buồn thương, nuối tiếc cũng là sự trả hiếu, trả ân nghĩa cho nhau trong một thời hạn cố định.

Lễ xả tang là thời hạn, nhiệm vụ và bổn phận để tang đã hoàn tất. Tùy theo sự liên hệ gần hay xa đối với người chết mà có sự ấn định thời hạn để tang

Như Đại Tang: Là 3 năm (thực ra có 27 tháng )

Để Tang Tứ Thân Phụ Mẫu

Và để Tang Vợ, Chồng

Còn Tiểu Tang: Thì tính từng tháng cho đến tối đa là một năm như: Tang Anh Chị Em Ruột và Tang Họ Hàng Nội Ngoại

Đi vào chi tiết hơn về việc Để Tang, phải chăng khi đang Để Tang là đang tỏ lòng thương sót, đang đền bù, đang biết ơn, trả ơn, đang trả hiếu một cách vô cùng chân thành, nồng nhiệt.

_ Của các con cháu hiếu hạnh đối với ông bà, cha mẹ, họ hang

_ Của những người vợ, người chồng có tình, có nghĩa

_ Của họ hàng, bạn bè tốt đối với người thân thương

Đồng thời cũng là:

– Của những người con, người cháu đã lỡ bất hiếu, bất mục, nay vì biến cố chết chóc này mà họ đang bắt đầu biết thương sót, biết ăn năn, hối hận đối với ông bà, cha mẹ, họ hàng…

– Của những người vợ, người chồng đã lỡ bội bạc, xấu xa nay vì biến cố chết chóc này mà họ đã bắt đầu biết ăn năn, hối hận, sót thương nhau.

– Và của tất cả những ai là người không tốt trong họ hàng, trong bạn bè v..v.. Nay vì biến cố chết chóc này họ cũng đã biết bắt đầu ân hận về cách cư xử không đẹp đối với người xấu số!

Bài Thơ: Chăng Là Đã Trễ?

Đừng chờ khi chết mới trả hiếu cho nhau Đừng chờ khi chết mới ân hận u sầu Hỏi dâng được chi khi mẹ cha đã chết Để Tang được gì, thêm tủi nhục thương đau! Đừng chờ khi chết mới trả nghĩa cho nhau Đừng chờ khi chết mới hối hận bắt đầu Chà đạp nặng lời suốt cuộc đời chung sống Để Tang làm gì thêm mai mỉa cho nhau! Đừng chờ khi chết mới ân đền cho nhau Đừng chờ khi chết mới thức tỉnh quay đầu Cho được cái chi khi thầy tôi đã chết Để Tang được gì hay đau lại thêm đau! Đừng chờ khi chết mới sử đẹp thương nhau Sao trong khi sống lại tàn tệ thương đau Cư xử hài hòa là để Tang khi sống Chết còn Tang gì, thêm tủi hổ cho nhau!

(Chú ý: Câu số 11 bài trên chúng ta có thể để anh, chị, em hay bất cứ tên ai.)

Một chút suy tư về Phát Tang, Để Tang và Xả Tang

Về mặt hình tướng

Có bao giờ chúng ta thắc mắc về những việc Phát Tang, Để Tang, Xả Tang có hình thức, có cố định thời gian mà lại tỏ cho đủ hết được lòng sót thương, hiếu hạnh, sự hối hận, ăn năn và sự đền ơn đáp nghĩa? Liệu những hình thức ấy có thật là đã vẹn toàn cho những ý nghĩa linh thiêng này không? Hay là đã quá trễ, không thiết thực và cũng không ảnh hưởng gì cho người đã chết!

Tới đây tưởng cũng không cần có câu trả lời cho sự thắc mắc ở trên, vì mỗi người mỗi ý đều được tôn trọng nhưng có lẽ đa số đều bất đồng với quan điểm không được rốt ráo này.

Về mặt vô hình tướng

Việc Phát Tang, Để Tang, Xả Tang Vô Tướng đương nhiên là bao la, trọn vẹn và hợp lý hơn vì không có sự giới hạn, cố định thời gian nào cả.

Thực sự mà nói thì có cái gì có thể trả được hiếu, trả được ơn với những công lao trời biển của cha mẹ? Cũng như những ân tình giữa vợ chồng, gia đình, họ hàng v..v.. Thật khó mà đền đáp cân xứng cho nhau, thế cho nên chúng ta đều bị lâm vào tình trạng là chẳng gì trả được và cũng không bao giờ trả xong!

Tại sao chẳng gì trả được? Quý vị nào có con cái thì đã đều biết từ lúc người mẹ mang thai đến khi sinh nở, nuôi nấng con cực khổ trăm bề, hy sinh vô cùng tận cho đến khi con đã trưởng thành, đã thành đạt rồi mà cha mẹ cũng vẫn còn lo, thậm chí nhiều bậc cha mẹ đã lo xong cho con, lại tiếp tục lo cho cháu; Đấy là trường hợp những đứa con lành lặn, thông minh, ngoan ngoãn; Còn những đứa con tật nguyền hoặc những đứa con hư hỏng, thì ôi thôi cha mẹ còn cực khổ tới đâu? Bút nào mà tả cho xiết được!

Vậy thử hỏi chúng ta lấy gì mà trả hiếu cho đồng với công lao xương máu của cha mẹ?

_ Tại sao không bao giờ trả xong? Theo thuyết nhà Phật thì gia đình vợ chồng, con cháu, cha mẹ, anh chị em đều vì nhân duyên mà hợp lại với nhau và đều có nguyên do là nợ nần, ân oán, duyên nợ trả vay, vay trả ấy không bao giờ có thể đồng đều, nên mới có sự luẩn quẩn loanh quanh, luân hồi, sinh tử không bao giờ dứt, và sự vay trả, trả vay cũng không bao giờ xong!

Để trở lại vấn đề báo hiếu, trả ân, trả nghĩa, phát tang, xả tang: Nhiều người sẽ nói rằng tổ tiên, cha mẹ đã sinh ra ta thì bổn phận các ngài phải lo cho ta chứ đâu lại cần sự đền bù, trả đi, trả lại kỹ lưỡng đến thế! Xin thưa rằng:

– Về Phương Diện Hình Thức, Lý Lẽ của Thế Gian thì sự trả ơn, trả nghĩa cho nhau như thế là tạm đủ, hay đã đủ.

– Nhưng về Phương Diện Đạo Lý có hơi khác vì nó sâu sắc hơn; Qua Giáo Lý nhà Phật thì

Cái Nghiệp không hình, không tướng của chính chúng ta nó cứ âm thầm diễn tiến, âm thầm hành động chỉ vì sự vay trả, oán ân không đồng đều nên sự luân hồi, trôi lăn phải bị triền -miên! Do duyên này chưa kịp dứt thì chính chúng ta lại tạo thêm những nhân duyên mới để liên tiếp có nhân, có quả, có nghiệp riêng, nghiệp chung liên hệ với nhau về những ân oán, nợ nần, danh, tài, ái, dục, thân mạng v..v.. Tùy theo ít hay nhiều, sâu hay nông mà tương ứng thành duyên vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, họ hàng hay bạn bè trong một thời gian dài, ngắn cũng tương ứng với sự hội tụ và chia lìa ấy. Chúng ta cứ luẩn quẩn, loanh quanh chằng chịt với nhau như thế vì nợ này chưa dứt lại vay nợ kia, do lẽ đó mà sự vay trả, trả vay không bao giờ có thể cân bằng, nên cũng không bao giờ có thể trả xong để chấm dứt.

Sự việc vô cùng phức tạp, phiền não này cũng có thể giải quyết tuy là khó khăn nhưng cũng còn tùy từng quan niệm của từng cá nhân như:

– Người chấp nhận sự việc ấy thì lý luận rằng việc Luân Hồi, vay trả là trò chơi rất vui …

– Người không chấp nhận thì lại khắc khoải, suy tư và nói rằng: “Đó là một trò chơi vô minh đầy nước mắt! ” cần chấm dứt.

Để giải quyết vấn đề rắc rối, phức tạp này là làm sao có thể trả hiếu, trả nghĩa, trả ơn cho nhau được trọn vẹn, dứt được ân oán, nợ nần, ngoài vòng Sinh Tử Luân Hồi và cũng là đã Xả Tang. Thì ngay Đức Phật còn ngao ngán, suy tư và cuối cùng cũng phải có biện pháp là Đi Tu rồi Giác Ngộ mới thoát ra được cái vòng Luân Hồi rắc rối ấy.

Khi nói đến chữ Tu là ai cũng sợ hãi vô cùng vì tưởng Tu là phải ở chùa, phải xuống tóc, phải mặc áo Cà Sa, phải ăn chay và sống một cuộc đời thật kham khổ v..v… Thực ra thì không ắt hẳn là phải như thế; Dù Tu tại gia mà Tu cho thật nghiêm chỉnh, thì cũng đạt được mục đích y như những người xuất gia ở chùa không hơn không kém một mảy may nào hết, vì Đạo Phật là Đạo Trí Huệ và Bình Đẳng, ai ăn nấy no, ai làm nấy được, miễn Tu cho đúng đường lối Chính Pháp, Tu sao cho Trực Chỉ để nhận ra được Bản Thể Sẵn Có Của Mình là tự động giải thoát chính mình, giải thoát người và cũng là trọn vẹn việc ân đền, nghĩa trả, việc Để Tang và Xả Tang.

Bởi thế cho nên khi chúng ta bắt đầu Tu là bắt đầu trả ơn, đang Tu là đang trả ơn và khi Tu xong là đã trọn vẹn việc trả ơn cho mọi khía cạnh, dù phức tạp đến đâu về ân , oán, hiếu đễ, tình, tiền, danh -vọng ngay cả về thân mạng … Vấn đề Tu Hành dễ hay khó là do thật Tâm chúng ta có muốn hay không muốn mà thôi, nếu muốn thì dễ vô cùng mà không muốn thì lại cũng khó vô cùng!

Để cho những ai muốn Phát Tang, Để Tang và Xả Tang một cách hợp lý rốt ráo cũng chính là sự tu trì chân chính và thiết thực nhất, thì tại sao chúng ta không Tu ngay bằng cách là thực hành cả lý lẫn Sự (cả Hình Tướng lẫn Vô Hình Tướng) ngay trong đời sống hàng ngày của chúng ta? Nếu làm được thế thì đây là đường lối Tu Hành nhanh nhất đồng thời cũng là việc Phát Tang, Để Tang, Xả Tang rất thực tế và tuyệt đối!

Thưa vâng, chỉ cần giản dị như thế này trong suốt quãng đời hiện sống:

Là hãy tự hỏi: Tại sao chúng ta không sót thương nhau, không kính trọng nhau, không nhường nhịn, giúp đỡ nhau, không tiếc thương nhau ngay từ bây giờ, tức là chúng ta đang Phát Tang, đang Để Tang nhau khi còn đang sống để sẽ không có những ân hận, hối tiếc cũng như những gì muốn chứng tỏ, muốn cho nhau không quá trễ! Lý do chúng ta nên thương tiếc nhau ngay, vì mọi Vô Thường, mọi mất mát, mọi tang tóc không ai tránh được! Nó sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào, cho nên khi thấy Sự Vô Thường hàng ngày ngay trước mắt , thì chúng ta cũng biết rằng tất cả mọi người thân thương quanh ta đều sẽ phải bỏ ta mà đi bất cứ lúc nào, ngay cả thân ta cũng vậy! Khi đã hiểu như thế thì chúng ta không nỡ nói hay làm những hành động gì không tốt đẹp đối với nhau, mà trái lại chúng ta biết trân quí, biết sót thương, biết ơn nhau trong từng giây phút; Vì hiểu Vô Thường nên chúng ta sẽ tự động biết làm những cái hay, cái đẹp nhất cho nhau như:

– Chúng ta sẽ cư xử với nhau trong tình thương yêu chân thật.

– Chúng ta sẽ thật nhã nhặn, khiêm cung, luôn chấp nhận mọi hoàn cảnh tốt, xấu, mọi thiệt thòi và mọi lỗi lầm trong sự hiểu biết Sáng Suốt, Từ Bi.

– Hiểu lẽ Vô Thường dĩ nhiên chúng ta sẽ luôn bao dung, độ lượng, hỷ xả cho nhau ngay cả với những người có tội, và chúng ta cũng sẽ biết hối hận, ăn năn ngay khi gây tội lỗi.

– Hiểu Vô Thường chúng ta sẽ hiếu hạnh từng sát na khi chúng ta còn được cận kề bên cha mẹ.

– Hiểu Vô Thường chúng ta cũng sẽ biết sống trọn tình, trọn nghĩa, biết ơn đối với vợ chồng, con cháu, gia đình, họ hàng, bạn bè v…v…

– Và hiểu Vô Thường chúng ta còn biết ơn, biết trung thành với Quốc Gia, Xã Hội, cùng là yêu thương muôn loài, muôn vật v…v…

Nếu can đảm, kiên trì thực hành được như thế thì quả đúng là chúng ta đang Tu, đang Phát Tang, đang Để Tang tất cả mọi người, đồng thời chúng ta đang Phát Tang, đang Để Tang chính chúng ta trong suốt cuộc đời, không có hạn định, cố định thời gian, và cũng là chúng ta đang Sáng Suốt, Hài Hòa, Từ Bi vui sống trong thực hành tu trì như những gì đã kể ở trên, rồi lại còn tiếp tục trau dồi để thăng hoa bằng cách là tham khảo, học hỏi, đi sâu vào Kinh -Điển; Dùng Kinh Điển làm Kim Chỉ Nam và dùng một trong 84 ngàn Pháp Môn của Đức Phật làm Công Phu thì lo gì Đạo Đời chẳng vẹn toàn và những việc Phát Tang, Để Tang, Xả Tang cũng đã tự động được giải quyết xong xuôi.

Bài thơ: Tôi Hết Để Tang Tôi

Tôi Để Tang tôi ngay từ lúc mới ra đời Tôi sót thương tôi khó tránh khỏi tả tơi Tôi biết thân tôi như làn sóng chơi vơi Tôi sợ cho tôi ngụp lặn mãi luân hồi Tôi để tang tôi ôi suốt cả cuộc đời! Tôi lo tôi sẽ thành kẻ mồ côi Tôi lo mất trọn, rồi mất cả thân tôi Tôi cố sao cho khỏi hối tiếc kịp thời Tôi Để Tang tôi từ khi mới ra đời Tôi muốn Vô Thường không khuất phục được tôi Tôi không muốn mất, và mất hết khơi khơi Nên tôi là muôn loài, muôn vật tuyệt vời Tôi để tang tôi ôi đã suốt cả cuộc đời! Minh chứng liên hồi, toàn sinh tử ly bôi Giả, chân, còn, mất toàn vọng niệm mà thôi Động tịnh, tịnh đồng Tôi Hết Để Tang Tôi Chỉ vì bản ngã, tôi phân tích lôi thôi Vì vô minh dầy, tôi nhị biên tương đối Ngã, Pháp, vỡ nhẽ, tôi vượt, tôi thay đổi Dung thông tịnh đồng, Tôi Đã Xả Tang Tôi

Xả Tang Là Gì? Thời Gian Để Tang Là Bao Lâu?

Để tang, xả tang hay các nghi lễ tang chế khác đều nhằm mục đích bày tỏ tấm lòng, thể hiện sự đau buồn, nhớ thương người đã mất. Ngoài việc để tang là nghi lễ vô cùng quan trọng, việc xả tang cũng có ý nghĩa quan trọng không kém. Xả tang là gì, bao lâu thì được xả tang, tất cả sẽ được lí giải tại bài viết sau đây.

Thời điểm mà một người qua đời, gia đình, anh em, họ hàng bày tỏ sự tiếc nuối được gọi là phát tang. Sau thời điểm đó là quãng thời gian gia đình người đã khuất tiến hành việc tổ chức tang lễ, thực thi nhiệm vụ và bổn phận của người còn sống dành cho người đã mất trong một thời gian cố định được gọi là để tang. Xả tang chính là thời điểm hoàn tất mọi nhiệm vụ và bổn phận để tang.

Lễ xả tang thường hay được biết đến với tên gọi khác là cúng mãn tang. Đây là một buổi lễ được tiến hành với mục đích thông báo cho mọi người về việc hết thời gian để tang của gia đình đối với người đã mất. Ngoài ra, cúng mãn tang đôi khi còn được xem như một nghi thức tưởng niệm người đã khuất, cầu xin người thân đã mất phù hộ.

Hòa thượng Thích Phước Thái trong quyển 100 câu hỏi Phật Pháp đã chỉ ra rằng việc để tang, xả tang không phải là tục lệ của Phật giáo mà bắt nguồn từ Trung Quốc. Hơn 1000 năm Bắc Thuộc, văn hóa, tư tưởng Trung Hoa đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống tinh thần của người Việt, hình thành một số phong tục tập quán lễ nghi khác nhau. Đặc biệt là trong thời kì ba nguồn văn hóa Nho, Phật, Lão được truyền bá vào nước ta.

Theo tư tưởng của Nho giáo cho rằng con người phải lấy hiếu thuận làm đầu và quan niệm “sự tử như sự sanh” – khi sống thế nào thì lúc chết cũng phải như thế ấy. Việc để tang và các lễ nghi tang chế khác đều nhằm mục đích bày tỏ lòng hiếu thảo của người còn sống dành cho người đã khuất. Tư tưởng này phù hợp với đời sống tinh thần của người Việt nên đã được duy trì trong suốt thời gian qua và trở thành một trong những phong tục tập quán lâu đời.

Gia đình để tang bao lâu thì có thể tiến hành nghi thức xả tang? Tùy vào mối quan hệ giữa người còn sống và người đã mất mà thời gian để tang sẽ được ấn định khác nhau. Thông thường theo tục lệ sẽ có hai hình thức là đại tang và tiểu tang, gồm tất cả 5 bậc còn được gọi là ngũ phục.

Đại tang có thời gian để tang khá lâu, thông thường sẽ là 3 năm trước khi tiến hành nghi thức cúng mãn tang. Thực tế hiện nay nhiều gia đình chỉ để đại tang trong thời gian 27 tháng, có thể lí giải vì họ lấy thời gian mang thai 9 tháng để tính 1 năm, 3 năm là 27 tháng. Tuy nhiên, điều này chưa có căn cứ rõ ràng, việc giải thích này cũng chỉ dựa trên sự truyền miệng của người Việt ta mà thôi.

Thông thường, đây là thời gian để tang của những người có mối quan hệ gần gũi nhất với người đã mất. Có thể kể đến những đối tượng như con cái để tang cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi; dâu để tang cha mẹ chồng; cháu đích tôn thay cha (trong trường hợp người cha đã qua đời) để tang ông bà.

Vợ để tang chồng cũng được xếp vào loại đại tang do ảnh hưởng bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của lễ giáo phong kiến.

Tiểu tang có thời gian để tang ít hơn đại tang, tối đa là 1 năm và chia làm 4 bậc, chi tiết như sau:

Cơ niên là thời gian để tang 1 năm. Những đối tượng sau sẽ chịu tang 1 năm thường là cha mẹ để tang con trai, dâu trưởng, con gái chưa lấy chồng; con rể để tang cha mẹ vợ; anh chị em để tang cho nhau; con cháu để tang cho ông bà; chồng để tang vợ;…

Đại công: ít hơn thời gian để tang của cơ niên, những đối tượng xếp vào nhóm đại công chỉ để tang trong vòng 9 tháng. Cụ thể là cha mẹ để tang con dâu thứ, con gái đã lấy chồng; anh chị em họ hàng để tang cho nhau; chị em ruột đã lấy chồng để tang cho người đã mất.

Tiểu công: sau khi để tang người đã mất được 5 tháng có thể tiến hành nghi thức cúng mãn tang, thường dành cho các mối quan hệ như con để tang cha mẹ ghẻ, anh chị em họ hàng đã đi lấy chồng để tang cho nhau,…

Ti ma là hình thức để tang ít nhất, chỉ có 3 tháng sau tang lễ. Thường thấy là cha mẹ để tang con rể; con cô, cậu, dì để tang cho nhau,…

Hiện nay, cuộc sống ngày một hiện đại hơn, việc để tang, xả tang và các vấn đề khác cũng không còn được giữ đúng như thuở ông bà ta. Ngày xưa, con cháu trong gia đình phải qua lễ giỗ đại tường, tức qua 2 năm mới được mãn tang. Nhưng ngày nay vì nhiều lí do khách quan khác nhau, sau khi cúng 49 ngày hoặc sau khi hỏa táng có người đã xin cúng xả tang.

Nhưng đây cũng không phải điều sai trái, lỗi đạo, tùy theo yêu cầu của gia quyến mà có chịu tang ngắn hoặc dài. Suy cho cùng vấn đề hiếu thảo là nằm ở tâm, ở tấm lòng của con người. Lễ nghi cũng chỉ là một trong những hình thức thể hiện tấm lòng đó mà thôi.

Nhiều người cho rằng tang lễ là việc không may mắn cho nên khi chưa đến hạn xả tang, cần chú ý những vấn đề sau.

Cưới hỏi, hỉ sự là một trong những chuyện vui của đời người. Tuy nhiên, khi chưa hết thời gian để tang, gia đình thân quyến người đã mất tránh việc tổ chức đám cưới đám hỏi.

Việc tổ chức đám cưới trong thời gian này được xem là không may mắn và bị đánh giá là không có sự tôn trọng, thành kính, tiếc nuối đối với sự ra đi của người thân. Nếu vì lí do khách quan phải tổ chức đám cưới thì cần chú ý không được tổ chức quá lớn, quá náo nhiệt.

Việc tổ chức đám cưới trong thời gian này được xem là không may mắn và bị đánh giá là không có sự tôn trọng, thành kính, tiếc nuối đối với sự ra đi của người thân. Nếu vì lí ado khách quan phải tổ chức đám cưới thì cần chú ý không được tổ chức quá lớn, quá náo nhiệt.

Ngoài ra, người đang phải chịu tang người thân cũng không nên tổ chức khai trương. Tuy nhiên vì công việc và cuộc sống, nhiều người không thể đợi hết thời gian chịu tang được. Trong trường hợp này có thể mời thầy về cúng xả tang sau 49 ngày của người đã mất.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Vấn Đề Xả Tang Cho Cha Mẹ trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!