Cập nhật nội dung chi tiết về Văn Khấn Cô Bơ Bông Dành Cho Tín Đồ Con Nhang, Đệ Tử mới nhất trên website Herodota.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tứ phủ công đồng đã được công nhân là di sản văn hóa phi vật thể của nước nhà. Bài văn khấn thay lời con nhang, đệ tử gửi lời cầu xin, mong muốn của mình đến các mẫu, các quan, các cô, các cậu ở trên soi sét tại bản đền bản điện. Cùng chonnamsinhcon.com tìm hiểu văn khấn cô Bơ Bông như thế nào nhé.VĂN KHẤN CÔ BƠ BÔNG
Cô Bơ Bông hay còn gọi là Ba Thoải Cung ngự đồng thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng. Cô về cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi, ngắm cảnh lạc thú khắp nơi. Khi cô chèo thuyền có khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò. Sau khi chèo thuyền xong, cô cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh. Vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh.
Văn khấn cô Bơ Bông cho tín đồ con nhang, đệ tử
“Nhang thơm một triện,trống điểm ba hồi
Đệ tử con, dâng bản văn mời
Dẫn sự tích thoải cung công chúa
Tiền duyên sinh ở: thượng giới tiên cung
Biến hóa lên về Động Đình trung
Thác sinh xuống, con vua thoải tộc
Điềm trời giáng phúc, thoang thoảng đưa hương
Mãn nguyệt liền, hoa nở phi phương
Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt
Hoa cười ngọc thốt, nét ngọc đoan trang
Áo trắng hoa, chỉnh triện dung nhan
Tươi vẻ ngọc diện càng tươi sáng
Tóc mây hương thoảng, da trắng lạ lùng
Điểm yên chi, má đỏ hồng hồng
Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh
Tai đeo vàng cánh chân dận hài hoa
Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha
Chuỗi tràng mạng kim sa đài các
Mỗi ngày một khác, vẻ đẹp quá ưa
Áo bạch bào phơn phớt hương đưa
Chiếc lồng cổ hây hây xạ nức
Động lòng quân tử trạnh dạ văn nhân
Nói về tài cô tài vẹn mười phân
Nói về sắc mười phần nhan sắc
Áo hoa quần trắng, tóc phượng lưng ong
Chỉnh chiện thay nhan sắc não nùng
Vịnh thơ phú ngân nga đàn hát
Phấn nhồi má hạc, sáp điểm mày ngài
Cô mặc áo màu phơn phớt lòng trai
Hài mỏ phượng khoan thai chân bước
Đàn cầm thánh thót dạo khúc năm cung
Văng vẳng nghe tiếng nhạc lạ lùng
Điểm đót nhẹ giục lòng quân tử
Ba ngàn tiên nữ trăm ả theo hầu
Người vui mừng sắm sửa trầu cau
Kẻ hầu hạ nâng khăn sửa túi
Éo le cô nhiều lỗi cách điệu trăm phần
Người thanh tân nết cũng thanh tân
Người lịch sự thêm càng lịch sự
Hằng Nga tiên tử cung quế Quảng Hàn
Vấn khăn chầu áo ngự điểm trang
Lược ngà chải, gương loan điểm đót
Khăn hồng chau chuốt chuỗi ngọc lưu ly
Vẻ thướt tha tính nết nhu mỳ
So mọi vẻ cầm kỳ thi họa
Truyền chim nhắn cá trăm sự đinh ninh
Gẩy đàn ca tang tính tang tình
Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ
Phỉ lòng trăng gió hội ngộ bạn tiên
Chốn Ba Bông cảnh sắc thiên nhiên
Non nọ nước ấy miền sơn thuỷ
Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi
Khen trăng già sao khéo trêu ngươi
Tiên thượng giới, bạn người hạ giới
Hoa đào còn đợi, sao thấy gió đông
Đợi rồi mong nào đã phỉ lòng
Riêng chỉ đẻ tấc lòng bối rối
Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha
Bỗng hay đâu non nước la đà
Cánh chim nhạn cao xa bay bổng.”
THẦN TÍCH CÔ BƠ BÔNG
Sổ sách ghi chép lại thần tích về cô Bơ Bông như sau: Cô Bơ Bông hay còn gọi là cô Ba Thoải Cung vốn là con gái Vua Thủy Tề. Cô được sắc phong là Thoải Cung Công Chúa. Sau này, Cô được giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng. Cô có công giúp vua Lê Lợi trong những những ngày đầu khởi nghĩa trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Sau này, sau khi cô hóa, cô còn linh ứng giúp vua lê trong cuộc diệt Mạc phù Lê.
Trong những năm đầu khởi nghĩa, quân ta yếu thế về lực lượng, thường xuyên bị địch càn quyets. Trong một lần Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung đã gặp Cô Bơ đang tỉa ngô. Ngài liền ngỏ ý xin cô giúp đỡ. Cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Khi ấy giặc cũng vừa kéo tới. Chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đây. Cô đã trả lời chỉ có cô và anh trai đang tỉa ngô.Như vậy giặt mới bỏ đi.
Lê Lợi cảm thấy biết ơn và quý trọng cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Những ngay sau đó, cô ba Bông cũng bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ, có khi là chở cả quân nhu quân lương.
Nhiều tích lưu truyền lại rằng Cô Bơ thừa lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua chống giặc. Đến khi giặc rút nước yên, có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung.Sau đó, cô vẫn hiển linh nơi ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà).
Dù già hay trẻ nếu được cô giáng vào thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ngày trước, đường đi vào rất khó khăn. Tuy nhiên, hiện giờ đã đơn giản hơn nhiều do được tu sửa.
Xem thêm bài VĂN KHẤN RẰM THÁNG GIÊNG – TẾT NGUYÊN TIÊU ĐẦY ĐỦ nếu bạn muôn tìm hiểu về thông tin này nhé.
Văn Khấn Đền Ông Hoàng Mười Dành Cho Con Nhang, Đệ Tử
Văn khấn đền ông hoàng Mười dành cho con nhang, đệ tử
“Gươm thiêng chống đất chỉ trời
Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung
Hai vai nặng gánh cương thường
Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo”
“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Cung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam”
“Chí anh hùng ra tay cứu nước
Đi tới đâu giặc bước lui ngay
Việt Nam ghi chép sử dày
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang”
“Năm cửa ô tới Đô Thành
Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”
Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:
“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Ước cũ duyên xưa có thế thôi”
Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:
“Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”
Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:
“Muối đã mặn ba năm còn mặn
Gừng đã cay chín tháng vẫn cay
Ghế ông tình nặng nghĩa dày
Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng”
“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh
Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”
Thần tích về ông hoàng Mười
Đền thờ ông hoàng Mười tọa lạc ở địa phận làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Bản đền ông là một ngôi đền cổ nổi tiếng về sự linh thiêng rộng khắp xứ Nghệ.
Theo lời tương truyền lại về thần tích ông hoàng Mười, ông chính là Lê Khôi, là vị tướng tài, là cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh.
Có một dị bản truyền lại rằng, ông hoàng Mười giáng xuống trần và trở thành Uy Minh Vương Ly Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.
Phải chăng chính những giai thoại huyền bí này càng bao phủ lên đền thờ Ông Hoàng Mười một bức màn tâm linh thiêng liêng, kỳ ảo, làm cho tích ông Hoàng Mười càng trở nên linh thiêng và được nhiều người lai vãng.
Cầu gì khi đến đền ông hoàng Mười.
Giới hầu đồng quan niệm quan Hoàng Mười là vị thánh có quyền năng ban phép lành cho con đường học hành, phát về công danh sự nghiệp. Do vậy, nhiều người tìm đến bản đền bản phủ ông xin lộc vào mỗi dịp đầu năm. Đó cũng là lý do khiến những ngôi đền thờ ông Hoàng Mười luôn tấp nập du khách vào mỗi dịp đầu xuân và dịp tháng 10 âm lịch hàng năm
Đền Ông Hoàng Mười tại Nghệ An tổ chức hai kỳ lễ hội lớn là lễ hội khai điểm vào rằm tháng 3 Âm lịch và lễ hội giỗ ông Hoàng Mười từ ngày 8/10 đến 11/10 âm lịch. Trong khi đó, ngày chính tiệc hay còn gọi là ngày giỗ quan Hoàng Mười được coi là mùa tạ lễ quan trọng nhất.
Lễ hội ông Hoàng Mười được tổ chức
Phần lễ:
Được tổ chức vào sáng 14/3 âm lịch: Lễ yết cáo
Được tổ chức vào tối 14/3 âm lịch: Lễ đại tế
Được tổ chức vào sáng 15/3 âm lịch: Lễ dâng hương
Được tổ chức vào tối 15/3 âm lịch: Lễ yết cáo
Được tổ chức vào tối 09/10 âm lịch: Lễ đại tế
Được tổ chức vào sáng 10/10 âm lịch: Lễ tưởng niệm, dâng hương
Được tổ chức vào tối 10/10 âm lịch: Lễ tạ
Phần hội:
Được tổ chức vào chiều 14/3 và chiều ngày 9/10 âm lịch: rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền.
Được tổ chức vào chiều 15/3 và chiều ngày 10/10 âm lịch: hát chầu văn, thi chọi gà, đánh cờ người.
Được tổ chức vào sáng 16/3 và chiều ngày 11/10 âm lịch: rước sắc bằng thuyền từ đền về nhà thờ họ Nguyễn tại làng Xuân Am.
Top 3 Bài Văn Khấn Tứ Phủ Ngắn Gọn Dành Cho Con Nhang Đệ Tử Ít Đi Lễ
Top 3 bài văn khấn tứ phủ ngắn gọn dành cho con nhang đệ tử ít đi lễ: Thường những con nhang, đệ tử ít đi lễ thì không nên đọc những bài văn khấn tứ phủ dài mà thay vào đó là bài văn khấn tứ phủ ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ mà chuyện mục văn khấn của báo đời sống sẽ chia sẻ ngay trong bài viết dưới đây mời các bạn tham khảo. # Văn khấn tứ phủ ngắn gọn đi lễ…
Top 3 bài văn khấn tứ phủ ngắn gọn dành cho con nhang đệ tử ít đi lễ: Thường những con nhang, đệ tử ít đi lễ thì không nên đọc những bài văn khấn tứ phủ dài mà thay vào đó là bài văn khấn tứ phủ ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ mà chuyện mục văn khấn của báo đời sống sẽ chia sẻ ngay trong bài viết dưới đây mời các bạn tham khảo.
# Văn khấn tứ phủ ngắn gọn đi lễ đầu năm
Hôm nay, chuyên mục văn khấn của Báo đời sống sẽ chia sẻ cho các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên nên sử dụng văn khấn ngắn gọn như sau.
+ Nam mô a di đà phật ( 3 lần )
+ Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
+ Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
+ Con lạy: ………..( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)
+ Đệ tử con tên là:…………. tuổi:……….
+ Ngụ tại:……………………………
+ Hôm nay, (không cần nói rõ ngày tháng làm gì – Nếu không nói thì nhà thánh không biết hay sao), Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe – không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cung phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
+ Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
+ Một lần nữa, thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ …( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
+ Nam mô a di dà phật (3 lần).
# Văn khấn tứ phủ ngắn gọn dễ học thuộc
+ Nam mô a di dà phật (3 lần).
+ Đệ tử con tên là:…………. tuổi:……….
+ Ngụ tại:……………………………
+ Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:… Tháng:… Năm:…
+ Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ……………(tên đền) linh từ.
+ Mong trên cha độ, dưới mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc, đắc tài sai lộc…… Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám.
# Văn khấn đầy đủ dùng trong đền phủ
Ngoài 2 bài văn khấn tứ phủ ngắn gọn vừa được baodoisong.com.vn giới thiệu ở trên thì chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm bài văn khấn đầy đủ dùng khi đi lễ ở đền miếu phủ để các bạn nắm được rõ hơn về loại hình văn khấn này.
+ Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
+ Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư phật mười phương.
+ Cung thỉnh chư Thánh, cung thỉnh chư thiên cung tấu thỉnh thiên đình đại đế.
+ Con xin sám hối Tam phủ thần vương, tứ phủ thánh đế.
+ Con xin sám hối Thiên phủ Thánh Đế – Cao thiên Thượng thánh – Đại từ Nhân giả – Huyền khung Cao Thượng đế – Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn.
+ Con sám hối Nhạc Phủ Thánh Đế – (Tản Viên Sơn Thánh) – ngũ nhạc thần vương – năm phương sơn động.
+ Con sám hối Thủy Phủ Thánh Đế – (Lạc Long Quân Đại Đế) – Bát Hải Long Vương – tám phương cửa bể.
+ Con sám hối Địa phủ Thánh Đế – thập điện minh vưong tòa chương địa phủ Bắc Cực Trung Thiên Tam nguyên tam phẩm tam quan.
+ Con sám hối Đại Thánh Nam Tào Lục Ty duyên thọ tinh quân.
+ Con sám hối Đại Thánh Bắc Đẩu Cửu hoàn giải ách tinh quân Cửu tinh thiên chúa thập nhị bát tú chư bộ thiên binh chư dinh văn võ.
+ Con sám hối tấu lạy quốc mẫu vua bà bơ tòa tiên thánh tứ phủ Thánh Mẫu:
+ Kính lạy Cửu trùng thánh mẫu bán thiên công Chúa Thiên tiên thánh mẫu
+ Kính lạy địa tiên thánh mẫu quỳnh hoa Liễu Hạnh Vân Hương Thánh Mẫu Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương thiên tiên Thánh Mẫu.
+ Kính lạy Thánh Mẫu Đệ Tam thủy cung, Xích Lân long Nữ,Thủy Tinh Công chúa. Kính lạy Đức Mẫu thượng ngàn Diệu nghĩa diệu tín thiền sư Tuần Quán Đông Cuông đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
+ Con lạy trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vưong Trần triều Khải Thánh , Vương Phụ Vưong mẫu Vương phu nhân Tứ vị Vưong tử – Nhị Vị Vương cô – vương tế vương tôn Liệt vị tướng tướng công đồng Trần Triều.
+ Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh Bách vị các quan ngũ vị tôn quan: Quan đệ nhất Thượng Thiên; Quan đệ nhị thượng ngàn; Quan đệ tam thoải phủ; Quan đệ tứ khâm sai; Quan đệ ngũ tuần tranh. Con sám hối điều thất tôn quan – Hoàng triệu tôn quan.
+ Con lạy tứ phủ chầu bà thập nhị chầu bà: Chầu đệ nhất thượng thiên; Chầu đệ nhị thượng ngàn; Chầu đệ tam thủy phủ; Chầu đệ tứ khâm sai; Chầu năm Suối Lân; Chầu sáu Lục Cung ; Chầu bảy Kim Giao; Chầu tám Bát Nàn; Chầu chín cửu tỉnh; Chầu mười Mỏ Ba; Chầu Bé Bắc Lệ; Chầu bà thủ đền.
+ Con lạy Tứ phủ thánh hoàng thập vị thánh hoàng: sám hối ông bơ thoải quốc động chủ hưng long, ông bảy Bảo Hà, ông mười Mỏ hạc nghệ an.
+ Sám hối tứ phủ thánh cô: Cô đệ nhất thượng thiên; Cô đôi bồng lai; Cô bơ Thác Hàn; Cô tư tây hồ; Cô năm Suối Lân; Cô sáu Lục Cung; Cô bảy Kim Giao; Cô tám đồi chè; Cô Chín Sòng Sơn; Cô mười Đồng Mỏ; Cô bé sơn lâm; Cô bé bản đền
+ Sám hối tứ phủ thánh cậu: cậu cả; cậu đôi; cậu bơ; cậu bé đồi ngang.
+ Con lạy ngũ dinh thần tướng – ngũ hổ thần quan.
+ Con lạy đại tướng thanh xà – bạch xà tướng quân.
+ Con lạy công đồng các bóng các giá, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
+ Con lạy chầu chúa thủ đền cùng quan thủ điện, thổ địa thần kỳ thần linh bản xứ.
+ Đệ tử con là:………………………………………. ……………………………
+ Ngụ tại:…………………………………………………………………………..
+ Kim niên kim nguyệt, cát nhật lương thời ….niên…nguyệt…..thời.
+ Đệ tử con nhất tâm nhất lễ đêm tưởng ngày mong nhất tâm chí thiết nhất dạ chí thành nhất tâm tưởng vạn tâm cầu – tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ.
+ Mang miệng tới tâu – mang đầu tới bái – cửa đình thần tam tứ phủ.
+ Trên mẫu độ dưới gia hộ mẫu thương – vuốt ve che chở – phù hộ độ trì.
+ Cho con: ba tháng hè chín tháng đông – đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, Tứ thời bát tiết – tháng thuấn ngày nghiêu – phong thuận vũ hòa – tai qua nạn khỏi. Mẫu cho con được sáng hai con mắt – bằng hai bàn chân ; Mẫu ban lộc dương tiếp lộc âm – cho lộc mùa xuân cho tài mùa hạ; Cho tươi như lá cho đẹp như hoa – phúc lộc đề đa tiền tài mang tới; Mẫu cho con lộc ăn lộc nói – lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa; Hồ hết lại có hồ vơi lại đầy – điều lành mang đến điều dữ mang đi; Mẫu cứu âm độ dương cứu đường độ chợ – vuốt ve che chở nắn nở mở mang; Cải hung vi cát cải hạo vi tường – thay son đổi số nảy mực cầm cân; Mẫu phê chữ đỏ Mẫu bỏ chữ đen – cho con đựơc trăm sự tốt vạn sự lành; Trên quý dưới yêu trên vì dưới nể – cho gặp thầy gặp bạn gặp vạn sự lành; Mẫu ban danh ban diện ban quyền – cho con có lương có thực có ngân có xuyến – tài như xuyên chí lộc tựa vân lai; Cầu tài đắc tài cầu lộc đắc lộc – cầu bình an đắc bình an; Trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá phúc lộc đề đa; Cho trên thuận dưới hòa – trên bảo dưới nghe trên đe dưới sợ; Mẫu cho nước chảy một dòng – thuyền xuôi một bến, bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ; Năm xung Mẫu giải xung – tháng hạn giải hạn; Cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh duyên sinh trường thọ.
+ Đệ tử con người trần mắt thịt nhỡn nhục nan chi việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ. Tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh ăn, con ăn chưa sạch, con bạch chưa thông. Ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời, không biết kêu sao cho thấu, tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đấy, ba điều không sảy bảy điều không sai. Trăm tội mẫu xá vạn tội mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm. Mẫu soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.
+ Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó khó một nén, mong Mẫu gia hộ cho con ạ.
+ Nam mô vân hương đại từ tôn bồ tát ma ha tát !!!
+ Cẩn cáo!
# Những điều cần lưu ý khi khấn tại đền miếu phủ
Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi. Nhà thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy, nhưng sẽ chấp ta nếu có chỗ mà không quỳ. Vì quỳ là sự thể hiện sự tôn kính. Ngoài ra, khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh. Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.
Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn. Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối. Khi đó lời khấn của mình mới được chứng. Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám. Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc. Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.
Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.
Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ. Nếu có lễ thì nên đơn sơ. Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn. Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài. Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.
Tóm tắt: Trên đây là những mẫu văn khấn tứ phủ ngắn gọn và dễ đọc dễ học nhất dành cho các con nhang, đệ tử ít đi lễ ở đền chùa miếu phủ. Hy vọng đây sẽ là thông tin bổ ích dành cho quý bạn và đừng quên chia sẻ đến với mọi người để họ cùng biết nhé.Tags: văn khấn tứ phủ ngắn gọn, văn khấn ban sơn trang, văn khấn đền mẫu, văn khấn tại đền, văn khấn mẫu liễu hạnh, văn khấn đền trình, văn khấn cô chín, văn khấn ống hoàng mười nghệ an, văn khấn ông hoàng bảy
Có thể bạn quan tâm
Tiệc Cô Bơ Bông, Cô Ba Hàn Sơn Vào Ngày Nào?
Dù ai buôn bán trăm nghề Mười hai tháng sáu thì về tiệc cô!
Cô Bơ là ai?
Cô Bơ Bông (hay còn gọi là Cô Ba Thoải Cung) vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa
Cô Ba Thoải Cung là Thánh cô nổi tiếng trong Tứ phủ thánh cô. Cô thường về ban lộc tình duyên, lộc chữa bệnh.
Cô Bơ là giá cô đứng thứ ba trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô. Cô ngự đồng với trang phục trắng thanh tao, trang nhã, thắt đai hồng tạo vẻ êm dịu cho tổng quan bộ trang phục, cô Bơ đội khăn xếp thắt giải nét trắng cùng khăn hoa đẹp dịu dàng mà gợi cảm giác bồng bềnh của thoải phủ. Cô Bơ thường ngự đồng làm lễ tấu hương, cô chèo đò du ngoạn các đền các phủ, lúc an tọa cô làm phép thần để chữa bệnh cho nhân dân.
Động Đình thỉnh bóng Cô Ba Là tiên thần nữ ngự toà thoải cung Tam tòa thánh Mẫu tin dùng Phó Cô cai quản Bơ Bông Thác Hàn Trăng soi động bích gương loan Chợt trông sen trắng cá vàng rước lên Đan đài Chúa ngự tầng trên Tiên Cô giáng xuống ứng miền Thanh Hoa Lê triều có sắc hay là Hằng Nga thể nữ Nàng Ba Thác Hàn
Nghe văn cô Bơ:
Ngày tiệc chính cô Bơ?
Ngày 12.6 âm lịch là ngày rước Cô lên đền Mẫu. Nhưng ngày mất của Cô tương truyền là ngày 8/2. Nhiều nơi vẫn làm ngày tiệc Cô vào 8/2. Tuy vậy, để kỷ niệm ngày rước Cô lên đền Mẫu được coi là chính tiệc của Cô Bơ Bông.
Đền chính thờ cô Bơ hiện nay ở đâu?
Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô có danh hiệu là Cô Bơ Bông hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà cô là đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn).
Đền chính của Cô hiện nay là Đền Ba Bông tại xã Hàn Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa.
Đền Cô Bơ là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng.
Dân gian truyền tai nhau rằng, đền Cô Bơ rất linh, ai hữu sự đến kêu van cửa cô chỉ cần nhất tâm, lòng thành lễ bạc đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi. Lại thêm những câu chuyện cô hiển linh lưu truyền trong dân gian càng làm cho ngôi đền trở nên linh ứng, kỳ bí và thiêng liêng, thu hút rất nhiều người đến hành hương xin cô ban lộc, độ cho sức khỏe dồi dào, vạn sự hanh thông.
Cô Bơ về ngự đồng, giá cô Bơ
Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi.
Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh.
Một mái chèo cô chèo về Bát Hải Danh tiếng đồn cô Bơ thỏa mẫu yêu Mặt tròn ba ngấn cổ kiêu Môi son má phấn mỹ miều nết na Sông Thác Hàn ngự chốn ngã ba Thuyền bè xuôi ngược phải nhờ tay cô Cô ra tay trị bệnh hành phù Tàn nhang nước thải cô cho lại lành Cô lên tàu xuống giọng có một mình Không mây cưỡi gió tính tình ngao du Chiếc thoi cô lênh đênh qua cửa thần Phù Thuyền nan chèo quế nhật du tính tình Danh tiếng đồn cô Bơ thoải anh linh Mười hai cửa hành trong tay
Cô cứu sinh cũng lắm độ oan cũng nhiều Cô chỉ thương chúng bệnh hiểm nghèo Cô ban phù cấp thuốc bệnh đều tan thông Sám hối cô cô thương lấy đồng cùng Nỡ nào cô để cho đồng hàn vi Dẫu rằng không thương xin cô cũng yêu vi Cô mượn cầu Ô Thước, cô bắc cầu sông Ngân Cô yêu ai, xa cũng như gần Cô giận ai cách nửa bàn chân cũng lìa
Tính cách người có căn cô Bơ?
Nhìn chung, những người có căn cô Bơ, sát căn cô Bơ sẽ có tính cách giống cô Bơ, được thể hiện qua một số nhận định:
Ngoại hình thanh tú
Tâm tính và phong thái nữ tính bất kể là nam hay nữ
Tâm tình giàu lòng trắc ẩn, nhiều cảm xúc, hay hờn tủi nhưng sắc diện lại vui tươi
Diện trang phục màu trắng rất đẹp
Tình duyên có phần hơi lận đận và trắc trở
Có người ngửi mùi hương thì chao đảo, dễ bị ốp bóng
Khi dự lễ Thánh cô thì bắt đầu rưng rưng, sau đó có khi khóc tùm lum
Cô lúc sinh thời có lẽ trải nhiều mưa nắng dãi dầu nên cô thương chấm lính nhận đồng những người vất vả truân chuyên chứ không phải là con cô mà khổ, biết ra cho núi bạc non vàng,nhược bằng vô ý Cô để nhỡ nhàng mặc kệ ai.
Thần tích cô Bơ bông:
Thần tích cô Bơ ghi chép trong lịch sử
Theo cuốn “Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên” được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông như sau:
“Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: “Ta là con gái vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả”.
Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát. Để tỏ lòng biết ơn, nhà vua có nói với cô rằng: “Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô”.
Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay). Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Bơ. Tương truyền, sau thắng lợi, vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện.
Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái vua Thủy tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, Lê Lợi đã phong cô là “Thượng Đằng Thần” và cho xây dựng đền để tưởng nhớ công lao của Cô.”
Thần tích cô Bơ qua các dị bản dân gian
Ngoài ra, còn có các dị bản khác như:
“Vào thời mới khởi nghĩa, có một lần Lê Lợi bị giặc đuổi đến ngã ba Thác Hàn thì gặp một cô gái đang tỉa ngô. Cô đã lấy quần áo nông dân cho Lê Lợi mặc giả làm anh trai cùng tỉa ngô. Vì thế, Lê Lợi đã thoát cuộc truy đuổi. Lê Lợi rất biết ơn cô gái và có hẹn sau này chiến thắng sẽ đón cô về cung phong công và phong phi tử. Tuy nhiên, sau này khi kháng chiến thành công, Lê Lợi cho người về đón thì được biết cô gái vẫn một lòng kiên trinh chờ đợi cho đến khi thác hóa. Cô gái còn có công lớn trong việc vận chuyển quân lương, quân lính của Lê Lợi trong suốt cuộc khởi nghĩa.”
Huyền tích về cô Bơ sau khi thác hoá
Bên cạnh đó, để ghi tạc công đức của Cô, dân gian còn lưu truyền một số huyền tích khác nói về công trạng của Cô Bơ Hàn Sơn sau khi người thác hóa:
“Vào đầu triều đại Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), thái úy Lê Thọ Vực, được giao trấn giữ biên ải Ba Bông. Trong một trận chiến kéo dài, tình thế nguy cấp. Đêm đó. Lê Thọ Vực đã mơ thấy một tiên nữ mặc xiêm y trắng trên mây giáng xuống ngã Ba Bông, rẽ nước bước lên kiệu võng mà nói rằng: “Hãy lui quân về Nhị Sơn hạ thủy mà vây hãm, lên núi Thạch Bàn mà cầu Mẫu thoải tất ứng linh”.
Theo lời, Lê Thọ Vực đã dẫn quân xuôi về Thác Hàn Sơn dâng lễ cầu Mẫu rồi bố trí quân binh mai phục. Ứng báo của Mẫu cho kế phá giặc là lấp đá chặn dòng, lấy thủy triều dâng, làm nghi binh nhử giặc vượt qua bãi đá ngầm, khi nước thủy triều xuống thì tổng lực phản công, thuyền giặc rút chạy bị vấp vào bãi đá ngầm, lật nhào chìm đắm rất nhiều, quân mai phục đổ ra đánh úp, quân giặc chết nhiều vô kể và thất bại thảm hại, không còn dám quấy nhiễu nữa. Để đáp lại ân đức của thánh thần, tướng quân Lê Thọ Vực tâu vua, vua Lê cho lập đền thờ Cô Bơ và đền thờ mẫu Đệ Tam ở vùng này.”
Tổng hợp
Bạn đang đọc nội dung bài viết Văn Khấn Cô Bơ Bông Dành Cho Tín Đồ Con Nhang, Đệ Tử trên website Herodota.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!